Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Số 380, tháng 4/2018
Làm việc thiện nguyện ở viện dưỡng lão Thánh Nữ Têrêsa vào những ngày
chẵn trong tuần, tôi có nhiệm vụ đẩy xe lăn, đưa hai cụ bà và một cụ ông
đến phòng ăn; rồi sau khi họ đã dùng cơm trưa, tôi giúp họ trở về phòng
riêng. Ngày nào cũng vậy, ông Mike Johnson luôn im lặng nhưng không bao
giờ quên nói câu cám ơn tôi; bà Monique Spencer thích trò chuyện, hỏi
thăm tôi này nọ, đa số là những câu bà đã từng hỏi; còn bà Edith
Kleinfeldt thì lúc nào đôi mắt của bà cũng ngó mông lung và thỉnh thoảng
bà cười một mình. Cả ba cụ ấy sống thật đơn chiếc, tôi chưa hề thấy con
cháu của các cụ đến viếng thăm. Cũng dễ hiểu thôi, những ngày trong
tuần phải bươn chải làm lụng, làm sao họ có thời giờ đến thăm. Riêng bà
Jennifer Nelson, người nằm kế bên phòng cụ Spencer, thì ngày nào ông
chồng của bà cũng có mặt, đưa bà đến phòng ăn, đút cơm cho bà, kể chuyện
cho bà nghe nhưng bà lại im hơi lặng tiếng. Bà đã mất trí nhớ rồi. Cảm
phục thay tình nghĩa vợ chồng già!
Ông Nelson tuổi độ bảy mươi, dáng đi của ông không được tự nhiên nhưng
trông ông vẫn còn khoẻ mạnh. Ngoài những câu chào hỏi xã giao, ông là
một người kín miệng, thường hay ngồi một mình trên chiếc băng ngoài cửa
phòng sau khi chăm sóc bà. Một hôm, đưa cụ Spencer về phòng xong tôi
bước ra ngoài, chợt thấy gương mặt của ông Nelson đượm chút ưu tư nên
tôi dừng lại hỏi thăm. Thay vì nói lên câu trả lời thường tình là "Cám
ơn ông, tôi khoẻ. Còn ông thì sao?", ông Nelson nhìn cái thẻ nhân viên
thiện nguyện tôi đang đeo trên ngực và hỏi:
"Chào ông, ông là người Việt Nam?"
Quên bẵng cái tên Việt của mình có in trên thẻ nhân viên nên tôi ngạc nhiên trả lời:
"Đúng vậy. Nhưng... nhưng sao... sao ông biết?"
Ông Nelson mỉm cười, đưa ngón tay trỏ chỉ thẻ nhân viên của tôi và nói:
"Tôi không đeo kính nên không thấy rõ lắm. Hình như họ của ông là
Nguyễn, một cái họ phổ biến nhất của người Việt." Rồi ông ta bỗng nhiên
tiết lộ, "Và... tôi có phục vụ ở Việt Nam nên tôi biết."
o O o
Vâng, tôi quen ông Nelson trong dịp ấy và ngày qua ngày chúng tôi có
thêm nhiều cơ hội cùng nhau hàn huyên tâm sự vì cả hai chúng tôi có cùng
một mẫu số chung. Người da trắng, kẻ da vàng nhưng chúng tôi là cựu
chiến binh cùng chung một chiến tuyến trong một cuộc chiến.
Nhờ vậy, tôi mới biết ông Nelson tình nguyện gia nhập quân đội vào năm
20 tuổi với bốn người bạn cùng lớp trung học. Sau khoá huấn luyện quân
sự ông phục vụ trong sư đoàn I Bộ binh Hoa Kỳ đóng tại Lai Khê, Bình
Dương. Gần hai năm sau, trong một cuộc hành quân ở vùng Bến Cát, ông
giẫm phải mìn, để lại bàn chân trái ở Việt Nam và được giải ngũ vào năm
1970. Ông tâm sự rằng, trở về đời sống dân sự trong giai đoạn ấy không
dễ dàng như ông nghĩ. Ông tìm được việc làm, lập gia đình nhưng những
cơn ác mộng về cuộc chiến cứ trở về hầu như hằng đêm. Nỗi buồn mất bạn
(hai trong bốn người bạn cùng nhập ngũ với ông đã bỏ thây nơi chiến địa)
cộng thêm sự lạnh nhạt, khinh khi của dân chúng Hoa Kỳ đối với các cựu
chiến binh Việt Nam vào thời ấy khiến ông lâm vào tình trạng PTSD rối
loạn tâm thần. Tính tình ông trở nên bất thường, đêm nằm mộng ông hay la
hét, thức dậy ông ngồi trầm ngâm một mình hàng giờ, trong sở làm ông
thường gây sự với đồng nghiệp, về nhà ông gắt gỏng với vợ con. Ông dùng
men rượu để giải sầu cho đến một ngày ông mất tất cả, việc làm và gia
đình. Rồi ông bỏ nhà ra đi, lang thang với một số cựu chiến binh Việt
Nam, sống ở đầu đường xó chợ, nhờ vào trợ cấp xã hội và lòng bố thí của
tha nhân vì được bao nhiêu đô la ông cho chúng bốc hơi trong thuốc lá và
men rượu.
Tuy nhiên, câu chuyện về ông Nelson tôi sắp kể ra đây lại bắt đầu từ một
cái tên khá quen thuộc trong ngôn ngữ Việt. Ông Nelson đọc được nó
nhưng nếu phát âm không đúng thì rất phiền nên ông cẩn thận đánh vần
từng chữ một cho tôi nghe. Một hôm, trong lúc trò chuyện ông Nelson bất
ngờ hỏi tôi:
"Tôi có một câu hỏi cho ông. Trong cộng đồng người Việt tại tiểu bang
này, ông có biết ai tên là P H U C đọc là Foouk hay không? Nếu còn sống,
năm nay ông ta khoảng trên dưới 70 tuổi. Ông ta đến Mỹ vào năm 1975 và
là giáo dân nhà thờ công giáo thánh Giu-Se ở phía Bắc thành phố."
Suy nghĩ một lát, tôi mới có thể trả lời ông Nelson:
"Theo như ông nói thì ông đó tên là Phúc, có nghĩa là Good Deed. Tôi có
quen với một ông tên Phúc nhưng ông ấy tuổi khoảng sáu mươi và là một
phật tử. Tôi là người công giáo, cư ngụ ở phía Nam thành phố nên thỉnh
thoảng tôi mới có dịp đến nhà thờ thánh Giu-Se dự lễ Misa. Nhưng, tôi
không biết ai tên là Phúc cùng đi nhà thờ ấy. Có thể ông ta đã dời nhà
đi Cali như đa số người Việt không chịu nổi cái lạnh miền bắc Mỹ này.
Tôi có thể hỏi thăm bạn bè tìm giúp ông. À, mà tại sao ông hỏi tôi về
ông Phúc vậy? Ông ta là bạn của ông à?"
Ông Nelson lắc đầu nói không. Ông gặp ông Phúc chỉ có một lần vào năm
1980, nhưng ông ta là người đã giúp ông vượt qua một giai đoạn khó khăn,
đau buồn và phức tạp nhất trong đời, lúc ông mất lòng tin cậy vào tình
thương của Thượng Đế, của gia đình và của xã hội.
Và, ông Nelson đã kể cho tôi nghe cuộc gặp gỡ ấy...
o O o
Sáng thứ năm ngày lễ Tạ Ơn năm ấy, hai năm sau khi trở thành một người
hobo (vô gia cư), thay vì đi đến nhà thờ Thánh Anphongsô ăn một buổi cơm
gà tây miễn phí như hàng năm, không hiểu sao tôi lại đổi ý bắt xe buýt,
định đi đến một khu thương mại xin chút tiền mua rượu uống. Trên xe
buýt, tôi chợt nhớ ngày lễ Tạ Ơn tiệm rượu nào cũng đóng cửa nên tôi kéo
dây chuông, muốn xuống xe buýt ở trạm kế tiếp, băng qua đường mà đón
chiếc buýt khác để trở về. Bước xuống xe buýt tôi thấy xe cộ đang chạy
tấp nập vì gần đó là một ngôi thánh đường. Tôi bèn lấy trong áo tơi ra
một miếng bìa có viết sẵn câu: "Please help feed a Vietnam veteran" (Xin
làm ơn cứu đói một cựu chiến binh Việt Nam) và đứng ở một góc ngã tư
đường. Tôi hy vọng kiếm được vài đô la trước khi đón xe buýt đi đến nhà
thờ Thánh Anphongsô ăn lễ Tạ Ơn. Mấy người bạn hobo của tôi chắc đã có
mặt ở nơi đó rồi.
Một lát sau bỗng có một người đàn ông Á Châu dừng chiếc xe Chevrolet cũ
xì, bước đến bên tôi và lễ phép mời tôi đến ăn lễ Tạ Ơn với giáo xứ
người Việt Nam tại nhà thờ Thánh Giu-Se cách đó không xa. Tôi định từ
chối nhưng khi nhìn người đàn ông nhỏ thó hơn tôi, nước da ngâm đen
trông giống như những người lính miền Nam Việt Nam đã từng đi hành quân
chung với trung đội của mình, tôi gật đầu đồng ý và leo lên xe cùng ông
ta đi đến nhà thờ. Trên xe, người đàn ông Á Châu ấy tự giới thiệu tên
ông ta đọc là Foouk đánh vần từng chữ một là P H U C. Tôi tự giới thiệu
tên mình là Jim Nelson rồi lầm thầm đọc đi đọc lại cái tên Phúc lạ kỳ
ấy. Đến nhà thờ, ông Phúc mời tôi xuống tầng hầm dùng cơm; tuy nhiên,
khi ấy gần đến giờ lễ Misa nên ông ta xin lỗi, không thể cùng tôi dùng
cơm được. Ông ta có phận sự đọc sách Thánh trong buổi lễ. Như tôi đã
nói, vì đã mất lòng tin vào Thượng Đế nên tôi đã bỏ lễ mấy năm rồi,
nhưng khi ấy không hiểu sao tôi lại nói tôi muốn tháp tùng ông đi xem
lễ. Tôi xin phép được ngồi ở một góc nhà thờ để tránh những cặp mắt hiếu
kỳ của những giáo dân người Việt đang tấp nập bước vào thánh đường.
Suốt buổi lễ Misa những bài kinh, thánh ca, bài đọc, bài giảng đều bằng
tiếng Việt nên tôi không hiểu chi hết. Tuy nhiên, tôi nhận ra được một
bản thánh ca vì âm thanh nghe rất giống bài "Lead Me, Guide Me" (Dẫn
Con, Dắt Con) tôi thuộc lòng từ năm tôi nhận phép Thêm sức. Phải chăng
ai đó đã phổ lời Việt cho bản thánh ca này? Tôi cũng nhận ra được sự
thành tâm, lòng tôn kính Thiên Chúa và đức tin của những giáo dân người
Việt ngày hôm ấy. Lễ xong, ông Phúc đến tìm tôi và mời tôi cùng ông đi
xuống tầng hầm nhà thờ dùng cơm. Đến nơi, tôi mới biết đây không phải là
một buổi tiệc mừng lễ Tạ Ơn mà là một dịp giáo dân mang đến các món ăn
họ làm tại nhà và bán để gây quỹ điều hành giáo xứ. Ông Phúc mời tôi
dùng một ổ bánh mỳ Tây có kẹp thịt, một tô súp thịt bò nóng hổi ông gọi
là Phở và một lon Coke. Lúc ông móc bóp trả tiền tôi cảm thấy thật là ái
ngại. Trong túi còn vài đồng đô la, tôi moi ra hết và trao cho ông,
buộc ông phải lấy.
Khi ấy, ông Phúc đã sống ở thành phố này được năm năm, ông nói tiếng Anh
khá lưu loát nên chúng tôi không gặp trở ngại nào trong lúc trò chuyện.
Tôi hỏi thăm và được biết ông nguyên là một trung uý phi công trực
thăng của quân lực miền Nam Việt Nam đóng tại Biên Hoà. Những địa danh
ông nói đến như Phú Lợi, Bến Cát, Củ Chi... rất quen thuộc với tôi. Sau
khi Sài Gòn thất thủ, trong lúc cấp bách ông đành phải ra đi một mình,
không thể mang theo vợ và hai đứa con, đứa em mới sanh được vài tháng,
đứa anh hai tuổi. Hơn bốn năm qua, ban sáng ông theo học ngành điện
toán tại một trường đại học của tiểu bang, buổi chiều ông làm việc trong
nhà kho của một hãng điện tử ở phía Nam thành phố. Ông sẽ tốt nghiệp
vào mùa hè năm tới, hy vọng sẽ tìm được một việc làm lương bổng khá hơn
để có thể bảo lảnh vợ con, cha mẹ và anh chị em đoàn tụ gia đình.
Ông Phúc kể cho tôi nghe câu chuyện đời của ông, giọng nói của ông thật
buồn nhưng không có chút cay đắng. Ông bảo rằng ông phó thác mọi sự vào
bàn tay quan phòng của Thiên Chúa và tình thương của Đức Mẹ. Tình cảnh
của ông, nghe qua thì thấy đáng thương hại nhưng nó rất nhỏ nhoi nếu đem
ra so sánh với những gì nhiều người Việt khác đã trải qua trên bước
đường mong manh tìm tự do. Biết bao người đã chết trong giông tố, chịu
đựng nhiều ngày đói khát trên biển cả, bị hải tặc hãm hiếp... Tai tôi
nghe ông Phúc kể chuyện mà lòng thì cảm thấy xấu hổ. Phải chăng tôi đã
đòi hỏi quá nhiều? Những mất mát của tôi trong cuộc chiến vừa qua có
nghĩa lý gì đối với những khổ đau người Việt đã và đang phải chịu đựng.
Trở về đời sống dân sự, tôi có một mái ấm gia đình, có một cuộc sống
tương đối đầy đủ nhưng tôi nào có biết cảm ơn Thượng Đế mà chỉ biết
trách, trách người chứ không nghĩ đến tình thương của xã hội, nhất là
của thân nhân, bạn hữu đã dành cho tôi.
Ăn uống xong, ông Phúc chúc tôi may mắn và một ngày lễ Tạ Ơn thật hạnh
phúc, rồi ông ân cần nói rằng ông có thể đưa tôi về nhà. Chữ "nhà" trong
lúc ấy tôi nghe sao quá ấm áp vì hai năm qua tôi ăn ngủ ở dưới một gầm
cầu bên bờ sông Mississippi. Tôi tự động gật đầu, bước theo ông Phúc ra
bãi đậu xe. Tôi cho ông địa chỉ nhà cha mẹ của tôi rồi và tôi kìm lòng
không đặng, buột miệng nói lời cám ơn ông đã cho tôi một dịp may để nhìn
lại bản thân mình, những gì tôi đã có và đã đánh mất. Thế rồi trong
suốt nửa giờ ngồi trên xe ông Phúc tôi trút bầu tâm sự, kể cho ông nghe
cuộc đời đáng lý ra phải rất là hạnh phúc của tôi. Ông chỉ gật gù vừa
chăm chú lái xe vừa nghe tôi kể cho đến lúc đến nhà, ông bắt tay tôi và
nói, "Jim, không có quá trễ để làm lại từ đầu. Xin ông hãy phó thác mọi
sự vào bàn tay quan phòng của Chúa. Tôi sẽ luôn cầu nguyện cho ông."
Tôi siết tay ông Phúc thật chặt, nói câu cám ơn và giã từ ông. Bước vào
sân trước ngôi nhà của cha mẹ, tôi chợt nhớ đến bản thánh ca "Lead Me,
Guide Me" tôi vừa nghe ở nhà thờ Thánh Giu-Se và tôi thì thầm cầu nguyện
bằng lời ca của tác phẩm ấy. Và, mọi sự đã xảy ra như một phép lạ.
Cha tôi mở cửa nhà, thấy tôi ông vui mừng la lên, "Bà ơi, thằng Jimmy
về!" Mẹ tôi từ căn bếp chạy đến đón tôi, hai tay bà ôm tôi vào lòng,
miệng bà liên tiếp nói câu "Tạ ơn Chúa!" Sau giây phút tương phùng ấy,
cha tôi hỏi tôi có thể ở lại tham dự buổi tiệc Tạ Ơn với gia đình vào
buổi chiều không. Gia đình cô em Nancy của tôi sẽ đến cùng với Jennifer,
người vợ cũ của tôi, và con trai của chúng tôi là Billy. Tôi đảo mắt
nhìn quanh, thấy tấm ảnh bán thân của mình trong bộ quân phục bộ binh
vẫn còn treo ở chỗ cũ, tôi nhè nhẹ gật đầu và nói với cha tôi rằng tôi
muốn đi tắm.
Bước vào nhà tắm, nhìn một thân thể gầy mòn trên gương tôi không thể
tưởng tượng nổi mình đã quá đỗi bệ rạc. Tôi lấy cái kéo, tự tay tỉa mái
tóc quá dài và rối nùi của mình, tôi dùng cái máy cạo râu của cha tôi
cạo láng da mặt, tôi tìm trong hộc tủ một bàn chải đánh răng và tôi đánh
bộ răng ố vàng của tôi đến ba lần. Sau đó, tôi tắm gội thân thể của
mình, chà xà bông không biết bao nhiêu lần mới cảm thấy sạch sẽ. Tôi còn
đang ngâm mình trong bồn tắm thì có tiếng gõ cửa và cha tôi bước vào,
trên tay ông là một chiếc khăn tắm và một bộ đồ cũ của tôi trước khi tôi
gia nhập quân đội. Tôi không ngờ cha mẹ tôi vẫn còn giữ chúng.
Chi tiết của buổi tiệc họp mặt gia đình chiều hôm ấy tôi xin miễn kể.
Điều quan trọng là Jennifer vẫn còn độc thân, nàng thường xuyên liên
lạc, thăm viếng, giúp đỡ cha mẹ tôi và tình thương của người thân, nhất
là Billy, dành cho tôi không có chút nào phai nhạt. Vì thế, tôi có cảm
tưởng rằng Jennifer vẫn còn yêu tôi. Ngay lúc ấy tôi quyết định từ bỏ
lối sống hobo, ở lại nhà cha mẹ. Vài ngày sau tôi đến gặp Jennifer, ngỏ
lời xin lỗi, nói tôi vẫn còn yêu nàng và xin nàng cho tôi một dịp may.
Tôi kể cho Jennifer nghe câu chuyện của ông Phúc, một người bị mất tất
cả, gia đình và quê hương. Ông ta đã bắt đầu lại từ con số không với hy
vọng gặp lại vợ con. Và, tôi muốn theo vết chân của ông Phúc, tôi đã đi
lễ trở lại, tôi cầu xin Thiên Chúa và Mẹ Maria gia ân phù độ, giúp tôi
tái lập một mái gia đình ấm êm, hạnh phúc. Tôi đã bỏ thuốc lá và rượu,
tôi đang tìm một việc làm và tôi sẽ đi học trở lại, không theo ngành
điện toán đang thịnh hành trong thời gian ấy như ông Phúc mà sẽ trở
thành một y tá. Tôi mong muốn có cơ hội giúp hàn gắn vết thương trong
lòng cũng như trên thân thể của những người bệnh hoạn như tôi.
Nhưng, sự trở lại của tôi không êm xuôi như tôi mong đợi và tôi tin rằng
đó là một thử thách của Chúa. Bỏ rượu được khoảng một tuần, một đêm nọ
tôi bị cảm lạnh rồi đột ngột bất tỉnh, hôn mê, cơ thể co giật, miệng sùi
bọt mép. Tạ ơn Chúa, mẹ tôi tự nhiên thức giấc, nghe tiếng động bên
phòng của tôi bà mới hay biết và la lên. Cha tôi gọi 911 và xe cứu
thương đã đưa tôi đến bệnh viện kịp thời. Bác sĩ cho thử máu và biết ra
cơ thể của tôi bị mất muối rất trầm trọng. Bệnh viện lập tức cho truyền
nước muối và tôi dần dần tỉnh lại sau khoảng mười tiếng đồng hồ hôn mê.
Mở mắt ra, tôi thấy Jennifer ngồi bên cạnh giường, bàn tay ấm áp của
nàng đang nắm tay tôi, lòng tôi sung sướng không thể tả. Bác sĩ giữ tôi ở
bệnh viện cả tuần lễ để theo dõi và thử nghiệm tìm nguyên nhân cơ thể
của tôi bị đột ngột mất muối. Họ nghi ngờ cả lố bệnh tật, kể cả ung thư.
Trong suốt thời gian ấy, mọi người trong gia đình ai cũng lo ngại cho
mạng sống của tôi nhưng tôi rất bình tĩnh. Tôi đã biết phó thác mọi sự
vào bàn tay quan phòng của Chúa. Cuối cùng, bác sĩ cho biết tôi có mang
vài bệnh tật nhưng không đáng lo ngại lắm, chúng sẽ được chữa trị bằng
thuốc men. Nguyên nhân của sự mất muối là do tôi đã bỏ rượu quá đột
ngột, bộ óc của tôi sản xuất một loại hoóc môn và nó đã tống khứ muối ra
khỏi cơ thể.
Sau khi lành bệnh, tạ ơn Chúa, tôi tìm được một việc làm bán thời gian.
Mùa xuân năm ấy, tôi ghi danh, lấy một cua ở đại học và Jennifer bằng
lòng cho tôi trở lại với nàng. Chúng tôi đã cùng nhau lập lại lời thề
nguyện hôn phối trước bàn thờ Chúa. Tôi vẫn luôn nhớ ơn của ông Phúc
nhưng tôi quyết định không tìm gặp ông. Tôi chỉ muốn gặp ông để nói câu
cảm ơn sau khi tôi đã đạt được mục đích của mình. Đó là có một việc làm
vừa để sinh sống vừa có dịp phụng sự tha nhân và một mái ấm gia đình.
Tôi cũng muốn tạo một ngạc nhiên cho ông Phúc nữa.
Gần năm năm sau, Jennifer và tôi có thêm hai cháu, một gái một trai.
Riêng tôi thì được một việc làm trong bệnh viện Thương Phế Binh sau khi
tốt nghiệp đại học. Tôi đến nhà thờ Thánh Giu-Se vào ba buổi lễ sáng
Chúa nhật nhưng không gặp được ông Phúc, vị ân nhân của tôi. Tôi hỏi
thăm vài giáo dân nhưng ai cũng lắc đầu nói không biết.
o O o
Nghe ông Nelson kể xong câu chuyện lòng tôi nói vài lời cám ơn ông đã
tin tưởng, tâm sự cùng tôi và lấy trong túi ra chiếc điện thoại iPhone,
tìm trên mạng và chỉ cho ông thấy trang Hội Quán Phi Dũng của quý ông bà
cựu quân nhân Không Quân VNCH ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Tôi hứa
với ông Nelson rằng tôi sẽ liên lạc với ban điều hành trang mạng, xin họ
đăng vài dòng trong mục tìm bạn giúp ông. Khoảng hai tuần lễ sau, tôi
nhận được một cú điện thoại từ Florida. Người gọi là ông Phúc. Tôi vắn
tắt kể cho ông nghe câu chuyện của ông Nelson và hẹn sẽ gọi lại ông
trong vòng nửa giờ. Tôi sẽ lái xe ngay đến viện dưỡng lão để hai ông nói
chuyện với nhau. Nhưng ông Phúc không đồng ý và yêu cầu tôi giữ kín mọi
chuyện. Ông nói rằng sau khi tốt nghiệp đại học ông tìm được một việc
làm ở thung lũng Silicon, California nên dời nhà về đó và vài năm sau
ông được đoàn tụ với gia đình. Hiện nay, con cái của ông bà đã yên bề
gia thất và vợ chồng ông vừa dọn nhà đi Florida để nghỉ hưu. Có nhiều
thời giờ nên hai ông bà sẽ làm một chuyến du lịch trở về tiểu bang miền
Bắc đã cưu mang ông ngày xưa và sẽ tạo một ngạc nhiên khá lý thú cho ông
Nelson.
Vâng, mọi sự đã xảy ra như một phép lạ. Ông Phúc và ông Nelson đã gặp
lại nhau. Ôi, nhiệm mầu thay bàn tay quan phòng của Thiên Chúa!
đào anh dũng
Mùa Vọng 2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét