Thú vui nhiếp ảnh thơ văn
Sẻ chia cùng bạn tri âm khắp miền.

đào anh dũng




25 tháng 8, 2018

Bàn Tay Quan Phòng

Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp
Số 380, tháng 4/2018

Làm việc thiện nguyện ở viện dưỡng lão Thánh Nữ Têrêsa vào những ngày chẵn trong tuần, tôi có nhiệm vụ đẩy xe lăn, đưa hai cụ bà và một cụ ông đến phòng ăn; rồi sau khi họ đã dùng cơm trưa, tôi giúp họ trở về phòng riêng. Ngày nào cũng vậy, ông Mike Johnson luôn im lặng nhưng không bao giờ quên nói câu cám ơn tôi; bà Monique Spencer thích trò chuyện, hỏi thăm tôi này nọ, đa số là những câu bà đã từng hỏi; còn bà Edith Kleinfeldt thì lúc nào đôi mắt của bà cũng ngó mông lung và thỉnh thoảng bà cười một mình. Cả ba cụ ấy sống thật đơn chiếc, tôi chưa hề thấy con cháu của các cụ đến viếng thăm. Cũng dễ hiểu thôi, những ngày trong tuần phải bươn chải làm lụng, làm sao họ có thời giờ đến thăm. Riêng bà Jennifer Nelson, người nằm kế bên phòng cụ Spencer, thì ngày nào ông chồng của bà cũng có mặt, đưa bà đến phòng ăn, đút cơm cho bà, kể chuyện cho bà nghe nhưng bà lại im hơi lặng tiếng. Bà đã mất trí nhớ rồi. Cảm phục thay tình nghĩa vợ chồng già!

Ông Nelson tuổi độ bảy mươi, dáng đi của ông không được tự nhiên nhưng trông ông vẫn còn khoẻ mạnh. Ngoài những câu chào hỏi xã giao, ông là một người kín miệng, thường hay ngồi một mình trên chiếc băng ngoài cửa phòng sau khi chăm sóc bà. Một hôm, đưa cụ Spencer về phòng xong tôi bước ra ngoài, chợt thấy gương mặt của ông Nelson đượm chút ưu tư nên tôi dừng lại hỏi thăm. Thay vì nói lên câu trả lời thường tình là "Cám ơn ông, tôi khoẻ. Còn ông thì sao?", ông Nelson nhìn cái thẻ nhân viên thiện nguyện tôi đang đeo trên ngực và hỏi:
"Chào ông, ông là người Việt Nam?"
Quên bẵng cái tên Việt của mình có in trên thẻ nhân viên nên tôi ngạc nhiên trả lời:
"Đúng vậy. Nhưng... nhưng sao... sao ông biết?"
Ông Nelson mỉm cười, đưa ngón tay trỏ chỉ thẻ nhân viên của tôi và nói:
"Tôi không đeo kính nên không thấy rõ lắm. Hình như họ của ông là Nguyễn, một cái họ phổ biến nhất của người Việt." Rồi ông ta bỗng nhiên tiết lộ, "Và... tôi có phục vụ ở Việt Nam nên tôi biết."

o O o

Vâng, tôi quen ông Nelson trong dịp ấy và ngày qua ngày chúng tôi có thêm nhiều cơ hội cùng nhau hàn huyên tâm sự vì cả hai chúng tôi có cùng một mẫu số chung. Người da trắng, kẻ da vàng nhưng chúng tôi là cựu chiến binh cùng chung một chiến tuyến trong một cuộc chiến.
Nhờ vậy, tôi mới biết ông Nelson tình nguyện gia nhập quân đội vào năm 20 tuổi với bốn người bạn cùng lớp trung học. Sau khoá huấn luyện quân sự ông phục vụ trong sư đoàn I Bộ binh Hoa Kỳ đóng tại Lai Khê, Bình Dương. Gần hai năm sau, trong một cuộc hành quân ở vùng Bến Cát, ông giẫm phải mìn, để lại bàn chân trái ở Việt Nam và được giải ngũ vào năm 1970. Ông tâm sự rằng, trở về đời sống dân sự trong giai đoạn ấy không dễ dàng như ông nghĩ. Ông tìm được việc làm, lập gia đình nhưng những cơn ác mộng về cuộc chiến cứ trở về hầu như hằng đêm. Nỗi buồn mất bạn (hai trong bốn người bạn cùng nhập ngũ với ông đã bỏ thây nơi chiến địa) cộng thêm sự lạnh nhạt, khinh khi của dân chúng Hoa Kỳ đối với các cựu chiến binh Việt Nam vào thời ấy khiến ông lâm vào tình trạng PTSD rối loạn tâm thần. Tính tình ông trở nên bất thường, đêm nằm mộng ông hay la hét, thức dậy ông ngồi trầm ngâm một mình hàng giờ, trong sở làm ông thường gây sự với đồng nghiệp, về nhà ông gắt gỏng với vợ con. Ông dùng men rượu để giải sầu cho đến một ngày ông mất tất cả, việc làm và gia đình. Rồi ông bỏ nhà ra đi, lang thang với một số cựu chiến binh Việt Nam, sống ở đầu đường xó chợ, nhờ vào trợ cấp xã hội và lòng bố thí của tha nhân vì được bao nhiêu đô la ông cho chúng bốc hơi trong thuốc lá và men rượu.

Tuy nhiên, câu chuyện về ông Nelson tôi sắp kể ra đây lại bắt đầu từ một cái tên khá quen thuộc trong ngôn ngữ Việt. Ông Nelson đọc được nó nhưng nếu phát âm không đúng thì rất phiền nên ông cẩn thận đánh vần từng chữ một cho tôi nghe. Một hôm, trong lúc trò chuyện ông Nelson bất ngờ hỏi tôi:
"Tôi có một câu hỏi cho ông. Trong cộng đồng người Việt tại tiểu bang này, ông có biết ai tên là P H U C đọc là Foouk hay không? Nếu còn sống, năm nay ông ta khoảng trên dưới 70 tuổi. Ông ta đến Mỹ vào năm 1975 và là giáo dân nhà thờ công giáo thánh Giu-Se ở phía Bắc thành phố."
Suy nghĩ một lát, tôi mới có thể trả lời ông Nelson:
"Theo như ông nói thì ông đó tên là Phúc, có nghĩa là Good Deed. Tôi có quen với một ông tên Phúc nhưng ông  ấy tuổi khoảng sáu mươi và là một phật tử. Tôi là người công giáo, cư ngụ ở phía Nam thành phố nên thỉnh thoảng tôi mới có dịp đến nhà thờ thánh Giu-Se dự lễ Misa. Nhưng, tôi không biết ai tên là Phúc cùng đi nhà thờ ấy. Có thể ông ta đã dời nhà đi Cali như đa số người Việt không chịu nổi cái lạnh miền bắc Mỹ này. Tôi có thể hỏi thăm bạn bè tìm giúp ông. À, mà tại sao ông hỏi tôi về ông Phúc vậy? Ông ta là bạn của ông à?"
Ông Nelson lắc đầu nói không. Ông gặp ông Phúc chỉ có một lần vào năm 1980, nhưng ông ta là người đã giúp ông vượt qua một giai đoạn khó khăn, đau buồn và phức tạp nhất trong đời, lúc ông mất lòng tin cậy vào tình thương của Thượng Đế, của gia đình và của xã hội.

Và, ông Nelson đã kể cho tôi nghe cuộc gặp gỡ ấy...

o O o

Sáng thứ năm ngày lễ Tạ Ơn năm ấy, hai năm sau khi trở thành một người hobo (vô gia cư), thay vì đi đến nhà thờ Thánh Anphongsô ăn một buổi cơm gà tây miễn phí như hàng năm, không hiểu sao tôi lại đổi ý bắt xe buýt, định đi đến một khu thương mại xin chút tiền mua rượu uống. Trên xe buýt, tôi chợt nhớ ngày lễ Tạ Ơn tiệm rượu nào cũng đóng cửa nên tôi kéo dây chuông, muốn xuống xe buýt ở trạm kế tiếp, băng qua đường mà đón chiếc buýt khác để trở về. Bước xuống xe buýt tôi thấy xe cộ đang chạy tấp nập vì gần đó là một ngôi thánh đường. Tôi bèn lấy trong áo tơi ra một miếng bìa có viết sẵn câu: "Please help feed a Vietnam veteran" (Xin làm ơn cứu đói một cựu chiến binh Việt Nam) và đứng ở một góc ngã tư đường. Tôi hy vọng kiếm được vài đô la trước khi đón xe buýt đi đến nhà thờ Thánh Anphongsô ăn lễ Tạ Ơn. Mấy người bạn hobo của tôi chắc đã có mặt ở nơi đó rồi.

Một lát sau bỗng có một người đàn ông Á Châu dừng chiếc xe Chevrolet cũ xì, bước đến bên tôi và lễ phép mời tôi đến ăn lễ Tạ Ơn với giáo xứ người Việt Nam tại nhà thờ Thánh Giu-Se cách đó không xa. Tôi định từ chối nhưng khi nhìn người đàn ông nhỏ thó hơn tôi, nước da ngâm đen trông giống như những người lính miền Nam Việt Nam đã từng đi hành quân chung với trung đội của mình, tôi gật đầu đồng ý và leo lên xe cùng ông ta đi đến nhà thờ. Trên xe, người đàn ông Á Châu ấy tự giới thiệu tên ông ta đọc là Foouk đánh vần từng chữ một là P H U C. Tôi tự giới thiệu tên mình là Jim Nelson rồi lầm thầm đọc đi đọc lại cái tên Phúc lạ kỳ ấy. Đến nhà thờ, ông Phúc mời tôi xuống tầng hầm dùng cơm; tuy nhiên, khi ấy gần đến giờ lễ Misa nên ông ta xin lỗi, không thể cùng tôi dùng cơm được. Ông ta có phận sự đọc sách Thánh trong buổi lễ. Như tôi đã nói, vì đã mất lòng tin vào Thượng Đế nên tôi đã bỏ lễ mấy năm rồi, nhưng khi ấy không hiểu sao tôi lại nói tôi muốn tháp tùng ông đi xem lễ. Tôi xin phép được ngồi ở một góc nhà thờ để tránh những cặp mắt hiếu kỳ của những giáo dân người Việt đang tấp nập bước vào thánh đường.

Suốt buổi lễ Misa những bài kinh, thánh ca, bài đọc, bài giảng đều bằng tiếng Việt nên tôi không hiểu chi hết.  Tuy nhiên, tôi nhận ra được một bản thánh ca vì âm thanh nghe rất giống bài "Lead Me, Guide Me" (Dẫn Con, Dắt Con) tôi thuộc lòng từ năm tôi nhận phép Thêm sức. Phải chăng ai đó đã phổ lời Việt cho bản thánh ca này? Tôi cũng nhận ra được sự thành tâm, lòng tôn kính Thiên Chúa và đức tin của những giáo dân người Việt ngày hôm ấy. Lễ xong, ông Phúc đến tìm tôi và mời tôi cùng ông đi xuống tầng hầm nhà thờ dùng cơm. Đến nơi, tôi mới biết đây không phải là một buổi tiệc mừng lễ Tạ Ơn mà là một dịp giáo dân mang đến các món ăn họ làm tại nhà và bán để gây quỹ điều hành giáo xứ. Ông Phúc mời tôi dùng một ổ bánh mỳ Tây có kẹp thịt, một tô súp thịt bò nóng hổi ông gọi là Phở và một lon Coke. Lúc ông móc bóp trả tiền tôi cảm thấy thật là ái ngại. Trong túi còn vài đồng đô la, tôi moi ra hết và trao cho ông, buộc ông phải lấy.

Khi ấy, ông Phúc đã sống ở thành phố này được năm năm, ông nói tiếng Anh khá lưu loát nên chúng tôi không gặp trở ngại nào trong lúc trò chuyện. Tôi hỏi thăm và được biết ông nguyên là một trung uý phi công trực thăng của quân lực miền Nam Việt Nam đóng tại Biên Hoà. Những địa danh ông nói đến như Phú Lợi, Bến Cát, Củ Chi... rất quen thuộc với tôi. Sau khi Sài Gòn thất thủ, trong lúc cấp bách ông đành phải ra đi một mình, không thể mang theo vợ và hai đứa con, đứa em mới sanh được vài tháng, đứa anh hai tuổi.  Hơn bốn năm qua, ban sáng ông theo học ngành điện toán tại một trường đại học của tiểu bang, buổi chiều ông làm việc trong nhà kho của một hãng điện tử ở phía Nam thành phố. Ông sẽ tốt nghiệp vào mùa hè năm tới, hy vọng sẽ tìm được một việc làm lương bổng khá hơn để có thể bảo lảnh vợ con, cha mẹ và anh chị em đoàn tụ gia đình.

Ông Phúc kể cho tôi nghe câu chuyện đời của ông, giọng nói của ông thật buồn nhưng không có chút cay đắng. Ông bảo rằng ông phó thác mọi sự vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa và tình thương của Đức Mẹ. Tình cảnh của ông, nghe qua thì thấy đáng thương hại nhưng nó rất nhỏ nhoi nếu đem ra so sánh với những gì nhiều người Việt khác đã trải qua trên bước đường mong manh tìm tự do. Biết bao người đã chết trong giông tố, chịu đựng nhiều ngày đói khát trên biển cả, bị hải tặc hãm hiếp... Tai tôi nghe ông Phúc kể chuyện mà lòng thì cảm thấy xấu hổ. Phải chăng tôi đã đòi hỏi quá nhiều? Những mất mát của tôi trong cuộc chiến vừa qua có nghĩa lý gì đối với những khổ đau người Việt đã và đang phải chịu đựng. Trở về đời sống dân sự, tôi có một mái ấm gia đình, có một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng tôi nào có biết cảm ơn Thượng Đế mà chỉ biết trách, trách người chứ không nghĩ đến tình thương của xã hội, nhất là của thân nhân, bạn hữu đã dành cho tôi.

Ăn uống xong, ông Phúc chúc tôi may mắn và một ngày lễ Tạ Ơn thật hạnh phúc, rồi ông ân cần nói rằng ông có thể đưa tôi về nhà. Chữ "nhà" trong lúc ấy tôi nghe sao quá ấm áp vì hai năm qua tôi ăn ngủ ở dưới một gầm cầu bên bờ sông Mississippi. Tôi tự động gật đầu, bước theo ông Phúc ra bãi đậu xe. Tôi cho ông địa chỉ nhà cha mẹ của tôi rồi và tôi kìm lòng không đặng, buột miệng nói lời cám ơn ông đã cho tôi một dịp may để nhìn lại bản thân mình, những gì tôi đã có và đã đánh mất. Thế rồi trong suốt nửa giờ ngồi trên xe ông Phúc tôi trút bầu tâm sự, kể cho ông nghe cuộc đời đáng lý ra phải rất là hạnh phúc của tôi. Ông chỉ gật gù vừa chăm chú lái xe vừa nghe tôi kể cho đến lúc đến nhà, ông bắt tay tôi và nói, "Jim, không có quá trễ để làm lại từ đầu. Xin ông hãy phó thác mọi sự vào bàn tay quan phòng của Chúa. Tôi sẽ luôn cầu nguyện cho ông."
Tôi siết tay ông Phúc thật chặt, nói câu cám ơn và giã từ ông. Bước vào sân trước ngôi nhà của cha mẹ, tôi chợt nhớ đến bản thánh ca "Lead Me, Guide Me" tôi vừa nghe ở nhà thờ Thánh Giu-Se và tôi thì thầm cầu nguyện bằng lời ca của tác phẩm ấy. Và, mọi sự đã xảy ra như một phép lạ.

Cha tôi mở cửa nhà, thấy tôi ông vui mừng la lên, "Bà ơi, thằng Jimmy về!" Mẹ tôi từ căn bếp chạy đến đón tôi, hai tay bà ôm tôi vào lòng, miệng bà liên tiếp nói câu "Tạ ơn Chúa!" Sau giây phút tương phùng ấy, cha tôi hỏi tôi có thể ở lại tham dự buổi tiệc Tạ Ơn với gia đình vào buổi chiều không. Gia đình cô em Nancy của tôi sẽ đến cùng với Jennifer, người vợ cũ của tôi, và con trai của chúng tôi là Billy. Tôi đảo mắt nhìn quanh, thấy tấm ảnh bán thân của mình trong bộ quân phục bộ binh vẫn còn treo ở chỗ cũ, tôi nhè nhẹ gật đầu và nói với cha tôi rằng tôi muốn đi tắm.
Bước vào nhà tắm, nhìn một thân thể gầy mòn trên gương tôi không thể tưởng tượng nổi mình đã quá đỗi bệ rạc. Tôi lấy cái kéo, tự tay tỉa mái tóc quá dài và rối nùi của mình, tôi dùng cái máy cạo râu của cha tôi cạo láng da mặt, tôi tìm trong hộc tủ một bàn chải đánh răng và tôi đánh bộ răng ố vàng của tôi đến ba lần. Sau đó, tôi tắm gội thân thể của mình, chà xà bông không biết bao nhiêu lần mới cảm thấy sạch sẽ. Tôi còn đang ngâm mình trong bồn tắm thì có tiếng gõ cửa và cha tôi bước vào, trên tay ông là một chiếc khăn tắm và một bộ đồ cũ của tôi trước khi tôi gia nhập quân đội. Tôi không ngờ cha mẹ tôi vẫn còn giữ chúng.

Chi tiết của buổi tiệc họp mặt gia đình chiều hôm ấy tôi xin miễn kể. Điều quan trọng là Jennifer vẫn còn độc thân, nàng thường xuyên liên lạc, thăm viếng, giúp đỡ cha mẹ tôi và tình thương của người thân, nhất là Billy, dành cho tôi không có chút nào phai nhạt. Vì thế, tôi có cảm tưởng rằng Jennifer vẫn còn yêu tôi. Ngay lúc ấy tôi quyết định từ bỏ lối sống hobo, ở lại nhà cha mẹ. Vài ngày sau tôi đến gặp Jennifer, ngỏ lời xin lỗi, nói tôi vẫn còn yêu nàng và xin nàng cho tôi một dịp may. Tôi kể cho Jennifer nghe câu chuyện của ông Phúc, một người bị mất tất cả, gia đình và quê hương. Ông ta đã bắt đầu lại từ con số không với hy vọng gặp lại vợ con. Và, tôi muốn theo vết chân của ông Phúc, tôi đã đi lễ trở lại, tôi cầu xin Thiên Chúa và Mẹ Maria gia ân phù độ, giúp tôi tái lập một mái gia đình ấm êm, hạnh phúc. Tôi đã bỏ thuốc lá và rượu, tôi đang tìm một việc làm và tôi sẽ đi học trở lại, không theo ngành điện toán đang thịnh hành trong thời gian ấy như ông Phúc mà sẽ trở thành một y tá. Tôi mong muốn có cơ hội giúp hàn gắn vết thương trong lòng cũng như trên thân thể của những người bệnh hoạn như tôi.

Nhưng, sự trở lại của tôi không êm xuôi như tôi mong đợi và tôi tin rằng đó là một thử thách của Chúa. Bỏ rượu được khoảng một tuần, một đêm nọ tôi bị cảm lạnh rồi đột ngột bất tỉnh, hôn mê, cơ thể co giật, miệng sùi bọt mép. Tạ ơn Chúa, mẹ tôi tự nhiên thức giấc, nghe tiếng động bên phòng của tôi bà mới hay biết và la lên. Cha tôi gọi 911 và xe cứu thương đã đưa tôi đến bệnh viện kịp thời. Bác sĩ cho thử máu và biết ra cơ thể của tôi bị mất muối rất trầm trọng. Bệnh viện lập tức cho truyền nước muối và tôi dần dần tỉnh lại sau khoảng mười tiếng đồng hồ hôn mê. Mở mắt ra, tôi thấy Jennifer ngồi bên cạnh giường, bàn tay ấm áp của nàng đang nắm tay tôi, lòng tôi sung sướng không thể tả. Bác sĩ giữ tôi ở bệnh viện cả tuần lễ để theo dõi và thử nghiệm tìm nguyên nhân cơ thể của tôi bị đột ngột mất muối. Họ nghi ngờ cả lố bệnh tật, kể cả ung thư. Trong suốt thời gian ấy, mọi người trong gia đình ai cũng lo ngại cho mạng sống của tôi nhưng tôi rất bình tĩnh. Tôi đã biết phó thác mọi sự vào bàn tay quan phòng của Chúa. Cuối cùng, bác sĩ cho biết tôi có mang vài bệnh tật nhưng không đáng lo ngại lắm, chúng sẽ được chữa trị bằng thuốc men. Nguyên nhân của sự mất muối là do tôi đã bỏ rượu quá đột ngột, bộ óc của tôi sản xuất một loại hoóc môn và nó đã tống khứ muối ra khỏi cơ thể.

Sau khi lành bệnh, tạ ơn Chúa, tôi tìm được một việc làm bán thời gian. Mùa xuân năm ấy, tôi ghi danh, lấy một cua ở đại học và Jennifer bằng lòng cho tôi trở lại với nàng. Chúng tôi đã cùng nhau lập lại lời thề nguyện hôn phối trước bàn thờ Chúa. Tôi vẫn luôn nhớ ơn của ông Phúc nhưng tôi quyết định không tìm gặp ông. Tôi chỉ muốn gặp ông để nói câu cảm ơn sau khi tôi đã đạt được mục đích của mình. Đó là có một việc làm vừa để sinh sống vừa có dịp phụng sự tha nhân và một mái ấm gia đình. Tôi cũng muốn tạo một ngạc nhiên cho ông Phúc nữa.

Gần năm năm sau, Jennifer và tôi có thêm hai cháu, một gái một trai. Riêng tôi thì được một việc làm trong bệnh viện Thương Phế Binh sau khi tốt nghiệp đại học. Tôi đến nhà thờ Thánh Giu-Se vào ba buổi lễ sáng Chúa nhật nhưng không gặp được ông Phúc, vị ân nhân của tôi. Tôi hỏi thăm vài giáo dân nhưng ai cũng lắc đầu nói không biết.

o O o

Nghe ông Nelson kể xong câu chuyện lòng tôi nói vài lời cám ơn ông đã tin tưởng, tâm sự cùng tôi và lấy trong túi ra chiếc điện thoại iPhone, tìm trên mạng và chỉ cho ông thấy trang Hội Quán Phi Dũng của quý ông bà cựu quân nhân Không Quân VNCH ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Tôi hứa với ông Nelson rằng tôi sẽ liên lạc với ban điều hành trang mạng, xin họ đăng vài dòng trong mục tìm bạn giúp ông. Khoảng hai tuần lễ sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ Florida. Người gọi là ông Phúc. Tôi vắn tắt kể cho ông nghe câu chuyện của ông Nelson và hẹn sẽ gọi lại ông trong vòng nửa giờ. Tôi sẽ lái xe ngay đến viện dưỡng lão để hai ông nói chuyện với nhau. Nhưng ông Phúc không đồng ý và yêu cầu tôi giữ kín mọi chuyện. Ông nói rằng sau khi tốt nghiệp đại học ông tìm được một việc làm ở thung lũng Silicon, California nên dời nhà về đó và vài năm sau ông được đoàn tụ với gia đình. Hiện nay, con cái của ông bà đã yên bề gia thất và vợ chồng ông vừa dọn nhà đi Florida để nghỉ hưu. Có nhiều thời giờ nên hai ông bà sẽ làm một chuyến du lịch trở về tiểu bang miền Bắc đã cưu mang ông ngày xưa và sẽ tạo một ngạc nhiên khá lý thú cho ông Nelson.

Vâng, mọi sự đã xảy ra như một phép lạ. Ông Phúc và ông Nelson đã gặp lại nhau. Ôi, nhiệm mầu thay bàn tay quan phòng của Thiên Chúa!


đào anh dũng
Mùa Vọng 2017

Không có nhận xét nào: