S
|
au
hơn 30 năm “mất dạy” tôi bồn chồn trở lại lớp học với tính cách một thầy giáo.
Mùa Thu năm nay bà xã tôi theo học một lớp cập nhật Kế toán sau giờ làm việc.
Hai thằng con trai tôi đã vào đại học. Ở nhà một mình rảnh rỗi, tôi tham gia
công tác thiện nguyện tại sở làm, dạy một lớp chiều về điện toán cho các em học
sinh trung học ở phía Bắc thành phố, một vùng “ổ chuột” nổi tiếng với nhiều tệ
đoan xã hội.
Nhóm thiện nguyện chúng tôi gồm bảy người. Bốn người
đã từng tham gia khóa học các năm trước, ba người còn lại, trong số đó có tôi,
là “lính mới”. Chúng tôi họp chung với nhau nhiều lần trước khóa học, bàn luận
về chương trình lớp học và phân công tác.
Chương trình “chơi” nhiều hơn học cho khóa định hướng
điện toán tám tuần lễ, mỗi tuần một lớp hai tiếng đồng hồ. Hai mươi phút đầu
của buổi học chúng tôi lướt qua các phần vụ của máy vi tính và đặt câu hỏi giúp
học sinh ghi nhớ các điểm chính. Em nào trả lời đúng một câu hỏi thì được
thưởng một món quà là phiếu mua không tính tiền một sản phẩm của công ty như là
một phong bánh, một hộp ngũ cốc, v.v . . . Chúng tôi dành hai mươi phút kế tiếp
kể cho các học sinh nghe kinh nghiệm nghề điện toán của mình, duyên cớ nào mỗi
người chúng tôi chọn ngành điện toán, học nghề ở trường nào, làm sao để kiếm
được việc làm. Sau đó là hai mươi phút ra
chơi. Giờ thứ hai, phần chính của lớp, học sinh làm bài tập. Chúng tôi chỉ dẫn
mỗi học sinh thành lập một trang trên mạng để các em có dịp sử dụng máy vi
tính, không phải để chơi trò chơi điện tử hay là “lướt sóng” trên mạng, gửi
điện thư, mà để giới thiệu một việc gì đó các em thích hay là thấy hữu ích cho
mình. Chúng tôi chia phiên nhau, nếu không giảng bài thì phụ giảng bằng cách
điều khiển máy vi tính (chúng tôi gọi là người hoa tiêu, navigator) chiếu các bài học và thí dụ lên màn ảnh lớn cho học sinh
xem, hoặc giúp các em làm bài tập trên máy vi tính.
Jeremy, trưởng nhóm thiện nguyện, là một chuyên viên
vi tính trẻ tuổi trực thuộc phòng Nhân Lực của công ty. Buổi họp đầu, anh chàng
nhắc nhở bọn “lính mới” chúng tôi:
“Xin quí bạn đừng kỳ vọng nhiều quá. Các em học sinh
ghi danh tham dự lớp học của chúng ta vì các em muốn tìm hiểu về ngành điện
toán. Tuy nhiên, đó không có nghĩa là các em sẽ chăm chỉ theo dõi bài giảng và
làm bài tập. Xin các bạn luôn nhớ rằng các em thuộc tầng lớp bị thiệt thòi, vì
vậy chúng ta cần thật nhiều kiên nhẫn
khi làm việc với các em.”
Đúng là miệng lưỡi của dân phòng Nhân Lực. Tầng lớp bị
thiệt thòi - the under-privileged, nói
trắng ra người da màu, nghèo - là một từ ngữ thời thượng được dùng để tránh tai
vạ chính trị, cũng như mùa Giáng Sinh được đổi thành mùa nghỉ lễ, dân da đen
thành dân gốc Phi Châu . . . Nghĩ xa hơn nữa, tôi ngao ngán, không biết nền tự
do dân chủ thái quá của xứ nầy sẽ đi về đâu. Còn những chế độ “tự do dân chủ
độc đảng” còn sót lại trên thế giới thì chừng nào sẽ bị đào thải đây.
Buổi học đầu
tiên, ba giờ ba mươi, xe buýt đưa học sinh đến. Chúng tôi đón các em tại cổng
sở làm. Nhìn đám học sinh hỗn tạp, tôi thầm nói: “Chà, coi bộ chăm à nghen!” Bảy chục phần trăm da
đen, trai lẫn gái, quần áo rộng thùng thình, em nào tai cũng mang ống nghe
nhạc, đi ngúc ngắc, nhún nhảy, nói chuyện ồn ào. Số còn lại da vàng, đi chung
với nhau, vài em tai cũng đeo ống nghe, nhưng im lặng, có vẻ lủi thủi, cách
biệt. Tự nhiên, tôi nhập vào nhóm da vàng, ân cần hỏi thăm, và giúp các em lấy
thẻ in tên sẵn, làm thủ tục vào sở. Tôi thở phào và thoáng vui khi không thấy
một thẻ nào mang họ Nguyễn hay Trần hay một họ Việt Nam nào khác. Cũng như đa số các
đồng hương Việt Nam, tôi đã từng thuê phòng trong một khu “ổ chuột” lúc mới
định cư ở Mỹ. Khi được việc làm kha khá, tôi dọn ngay ra ngoại ô, an toàn hơn
cho gia đình và trường học tốt hơn cho con cái. Tôi chợt nghĩ ra một điều mà
tôi không ngờ. Lớp học thiện nguyện của chúng tôi không những giúp các em học
sinh có một định hướng cho việc làm trong tương lai, mà còn có thể cho các em
một cơ hội để ra khỏi các “ổ chuột” của thành phố.
Thấy còn một thẻ tên chưa có người nhận, tôi cầm thẻ,
đưa lên cao, hỏi:
“Mai Vang. Em nào tên là Mai Vang?”
Từ cuối đám đông học sinh một bàn tay nhỏ nhắn đưa
lên, một giọng nói yếu ớt:
“Tôi.”
Đó là một thiếu nữ có gương mặt tuổi độ mười sáu mà
vóc dáng lại là của một bé gái mười một, mười hai. Mắt nai ngơ ngác, tóc dài
kẹp sau ót, em mặc một chiếc áo tơi cũ kỹ. Tôi đưa thẻ cho em, mỉm cười nói:
“Mai là tên của một loài hoa rất đẹp ở xứ tôi đó!”
“Tôi . . . tôi không biết.”
Đưa học sinh đến lớp học, tôi đi bên Mai, quảng cáo
chút ít về công ty, nói về lớp học, tôi chỉ nghe em khẽ tiếng Yes hoặc chỉ thấy em gật đầu. Tôi nghĩ
rằng em nhút nhát, e lệ nên tôi thôi không “quấy rầy” em nữa mà trò chuyện cùng
các học sinh khác.
Khi lớp học bắt đầu, các em học sinh móc ngay lên
mạng. Đứa nầy mở hộp thư, đứa kia xem mạng, mạng chiếu đầy hình ảnh ca sĩ, ngôi
sao điện ảnh và thể thao, xe hơi, trò chơi điện tử. Chúng tôi phải theo dõi
từng em, nhắc nhở các em đóng mạng để nghe bài giảng. Riêng Mai, tôi để ý thấy
em ngồi ngay ngắn, chăm chú nghe giảng, không đụng tới máy vi tính để trên bàn.
Tôi nhủ thầm: “Học sinh Á đông mà! Biết nghe lời thầy cô và có kỷ luật trong
lớp học.” Nhưng tôi lầm. Đến giờ làm bài
tập, thấy Mai lúng túng tôi hỏi mới biết em chỉ hiểu sơ sơ về vi tính qua một
lớp đánh máy ở trường. Em cũng không có
máy vi tính ở nhà nữa. Vì vậy mà em không theo kịp các thí dụ trên màn ảnh để
làm bài tập trên máy riêng. Giờ làm bài
tập hôm ấy tôi gần như dành riêng cho Mai, tôi giúp em hoàn thành phần căn bản
của một trang mạng đơn giản.
Thứ bảy cuối tuần, tôi thức dậy sớm duyệt qua bài tập
cho lớp học tới và soạn bài chỉ dẫn cùng thí dụ cho từng bước một, hy vọng nhờ
đó mà Mai có thể theo kịp các bạn học, không cần có tôi kèm bên.
Lớp học kế tiếp, khi điểm danh chúng tôi mới biết bốn
học sinh vắng mặt, trong số có Mai. Tôi lo lắng, không hiểu em nghỉ học vì nản
chí hay vì một lý do chánh đáng như là ấm đầu hoặc bận việc nhà. Cuối tuần, tôi
tiếp tục viết phần chỉ dẫn cho lớp học tới. Tôi có linh tính em sẽ không bỏ
học. Và lần nầy, tôi đoán không sai. Ba em kia tiếp tục nghỉ học, riêng Mai thì
em đến lớp. Tôi đề nghị Mai dùng bài chỉ dẫn của tôi để làm bài tập tuần trước
trong giờ học đầu hầu có thể theo kịp bạn trong giờ sau. Mai hăng hái nhận lời
và trong vòng nửa giờ em làm xong bài tập. Nhìn Mai sung sướng cười tự tin, tôi có cảm giác như mình vừa nhận được một phần
thưởng tinh thần vô giá.
Giờ ra chơi, thấy Mai ngồi một mình trong góc caféteria, tôi đến gợi chuyện, hỏi đùa
em:
“Mai bận đi mua sắm hay sao mà tuần rồi không đi học?”
“Dạ không . . .
dạ . . . em nghỉ học vì ông xã em bị bệnh.”
Tôi suýt kêu to: “Trời Phật ơi!” vì có lẽ nào em còn
nhỏ tuổi như thế mà đã lập gia đình. Nhưng khi nhớ ra tục tảo hôn vẫn còn thịnh
hành trong cộng đồng người Hmong mà
chánh quyền cố ý ngó lơ, xem như một ngoại lệ vì lý do phong tục khác biệt, tôi
không còn thấy thắc mắc. Tuy nhiên, tôi không khỏi ngán ngẫm thầm nghĩ đến
tương lai không mấy tươi sáng của Mai - em chưa xong trung học mà đã có gia
đình, rồi con cái đùm đề, làm sao em có thể đi học để có một việc làm với đồng
lương kha khá mà ra khỏi cái “ổ chuột” thành phố. Tôi cố gắng ra vẻ tự nhiên
hỏi thăm Mai:
“Vậy ông xã của Mai đã khỏi bệnh chưa?”
Nhưng tôi không giấu được những ý nghĩ trong đầu mình,
vì thay cho câu trả lời, Mai hỏi tôi:
“Em mới mười bảy mà đã có gia đình! Chắc thầy ngạc
nhiên lắm phải không? Chuyện của em dài lắm!”
Tôi im lặng vì thấy mình không nên đường đột hỏi thăm
thêm về tình cảnh của Mai. Khóa học có tám tuần lễ, tôi chỉ có thể giúp Mai tìm
hiểu về ngành điện toán. Nếu em có năng khiếu về nghề nầy, và nếu Ơn Trên phù
hộ độ trì em, em sẽ có cơ hội đi học mà tiến thân. Ngoài ra, tôi có thể giúp em
được điều gì hơn. Mai cũng im lặng. Nhưng sau một hồi lâu, Mai nhìn sâu vào mắt
tôi, và em kể cho tôi nghe chuyện của em. Vì sao, tôi không hiểu rõ. Có thể vì
em và tôi cùng một màu da, vì tôi đã tận tâm giúp em trong lớp học, vì tôi cũng
là một người tị nạn như em. Trong phần tự giới thiệu buổi học đầu tiên, tôi
thành thật nói với lớp rằng tôi vẫn xem mình là một người tị nạn Việt Nam
sau bao năm sống ở Mỹ.
Khả năng tiếng Anh của Mai rất khá cho một người tị
nạn sang Mỹ gần một năm. Chuyện em không những dài, mà còn thật buồn nữa. Mai
còn bà nội với gần một chục anh chị ở một làng tị nạn tại Thái Lan. Em sanh ra
đời tại đấy và mồ côi cha lẫn mẹ lúc chưa đầy hai tuổi. Cha mẹ em trốn sang Thái
Lan tị nạn, nhưng vì không có phục vụ cho Hoa Kỳ và không có thân nhân ở xứ nầy
nên không được chấp nhận cho định cư. Mai kể cho tôi nghe những đắng cay của
cuộc sống tị nạn, quê hương không sống
được, đất khách ruồng bỏ, lây lất kiếm ăn qua ngày, tương lai mờ mịt. Cách đây
hai năm em đã tự nguyện nhận lời kết hôn
với cậu con trai của một gia đình có thân nhân ở Mỹ để được ghép vào gia đình
nầy mà đi Mỹ, mặc dầu cậu con trai nầy nhỏ tuổi hơn em và có bệnh tâm thần.
Tiện lợi cho cả hai bên, gia đình nầy muốn con họ có người chăm sóc, riêng em
thì em hy sinh làm đầu cầu để mang cả gia đình sang Mỹ sau nầy. Tuy nhiên, em
rất thất vọng vì qua Mỹ gần một năm mà em chưa giúp gì được cho bà và anh chị
còn kẹt ở Thái Lan. Vì còn nhỏ tuổi, em được lãnh trợ cấp để đi học trung học.
Nhưng đến khi nào em mới có thể đi làm và bảo lãnh được thân nhân? Em nghe nói
ngành điện toán dễ có việc làm nên muốn tìm hiểu. Lớp học trước em rất cố gắng
nhưng thấy quá khó. Hôm nay, nhờ bài chỉ dẫn của tôi, em làm bài được nên rất phấn
khởi.
Tôi thật sự xúc động, không
ngờ một con người nhỏ bé, yếu đuối như Mai mà có một trái tim, một tấm lòng bao
la như biển. Tôi cũng thật sự xúc động vì biết em chưa đến tuổi trưởng thành mà
đã thực hiện một sự hy sinh vượt qua trí tưởng tượng của tôi. Chưa dứt dòng suy
nghĩ, tôi đã thấy Jeremy ra dấu trở vào lớp học, tôi chỉ biết an ủi, động viên
tinh thần em:
“Thầy . . . thầy rất hiểu
tình cảnh của Mai. Em nhớ luôn cố gắng học hành, đi làm, lo cho gia đình. Rồi
một ngày em sẽ mang được bà nội và anh chị sang đây sum hợp. Ngày xưa, thầy
cũng một thân, một mình, thầy đi làm, thầy đi học để có việc làm khá, rồi thầy
cũng bảo lãnh được cha mẹ anh em sang đây đó. Cố gắng lên nghe!”
Sau ba lớp học, các em học
sinh đã thiết kế được một trang mạng đơn giản. Chúng tôi đề nghị mỗi em tìm một
đề tài để lập ra một trang có tầm vóc hơn, với đầy đủ hình ảnh và các mục liên
kết. Ban giảng huấn sẽ chấm điểm và có phần thưởng là tiền giả để các em dùng
mà đấu giá mua các món quà vào buổi tiệc cuối khóa học. Thật đúng là tuổi trẻ
có nhiều óc tưởng tượng. Có em thiết lập một trang cho những người hâm mộ một
anh cầu thủ mới vô nghề, hy vọng anh ta nổi tiếng thì người lập trang cũng được hưởng lây. Em khác làm trang quảng
cáo cho mẹ em đang làm công việc thắt tóc bím tại gia. Em kia muốn mở một tiệm
bánh sau khi xong trung học, em lập một trang để giới thiệu và nhận đơn đặt
hàng. Cũng có em trai nọ lập một trang để tự giới thiệu mình, hy vọng có nhiều
bạn gái hơn. Riêng Mai thì sao? Em muốn thành lập một trang để giới thiệu các
gia đình Hmong còn ở trại tị nạn Thái
Lan đang cần được bảo trợ định cư.
Chúng tôi giúp các em học
sinh ý kiến trang hoàng trang mạng của mình, tìm kiếm các hình ảnh và các cách
thức thiết kế cần khả năng kỹ thuật cao. Mai nhờ tôi sưu tầm thêm các tin tức
liên quan đến người tị nạn Đông Dương để kết nối vào mạng của em. Mai cũng nhờ
tôi sang (scan) các hình ảnh em sưu
tập được vào máy vi tính và sửa chữa các lỗi chính tả bài giới thiệu đăng trên
trang mạng của em. Chúng tôi hăng say làm việc trong bốn tuần lễ thì xong tất
cả các trang của các em học sinh.
Tôi duyệt trang mạng của Mai
mà không khỏi hãnh diện về cô học trò của mình. Em dùng các hình ảnh gợi được
lòng trắc ẩn của người xem và viết những lời giới thiệu đượm tình người. Mai
giới thiệu được hơn hai chục gia đình trên trang. Em tế nhị liệt kê gia đình bà
nội và anh chị của em vào trang cuối. Tôi biết qua trang mạng Mai muốn bày tỏ
ước mơ ngày gia đình đoàn tụ. Nhưng làm sao tôi giúp em biến ước mơ ấy thành sự
thật được. Biết bao nhiêu người Đông Dương còn sống lây lất ở các trại tị nạn,
còn chờ đợi lòng nhân đạo của các xứ tự do. Tôi biết rất rõ vì có nhiều đồng
bào Việt Nam
của tôi còn kẹt ở Phi Luật Tân mặc dầu có sự tranh đấu của nhiều đoàn thể và cá
nhân có thiện chí. Tôi tâm sự với Jeremy và tìm được một giải đáp mà tôi không
nghĩ ra. Đúng là trẻ khôn ra, già lú lại! Jeremy đề nghị tôi giúp Mai bằng cách
đem trang của Mai lên mạng với một lệ phí không quá khả năng của tôi. Đồng
thời, Mai viết một lá thư đến các dân biểu, nghị sĩ giới thiệu trang mạng của
mình. May ra, họ để ý đến và giúp đỡ cho Mai sớm đoàn tụ với bà và anh chị. Khi
tôi tỏ ý muốn giúp Mai với đề nghị của Jeremy, tôi nhận thấy cặp mắt em sáng
rực lên, miệng em nở một nụ cười thật tươi mà tôi nghĩ không có họa sĩ nào ghi lại
được. Tôi hãnh diện là người đã giúp tạo nên niềm vui, niềm hy vọng đó.
Ban giám khảo chọn trang của
Mai trúng giải nhất, với số tiền thưởng là mười ngàn đô la dùng để mua đấu giá
các món quà do công ty đài thọ. Các học
sinh khác, em nào cũng nhận được tiền thưởng tùy theo số điểm ban giám khảo
chấm cho trang của mình. Ngày cuối khóa học, sau buổi tiệc mừng và chia tay,
các em học sinh tham gia mua đấu giá các món quà chúng tôi gói sẵn là các sản
phẩm của công ty. Món quà độc đắc là anh khổng lồ hạnh phúc (The Happy Giant, một nhãn hiệu cầu chứng
của công ty) nhồi bông to gần bằng người thật. Mai dùng trọn mười ngàn đô la để
đấu giá trúng món quà nầy. Tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao Mai không dùng số
tiền để mua được nhiều món quà khác mãi đến khi Mai cùng các bạn người Hmong của em mang anh khổng lồ nhồi bông
đến bên tôi và ngỏ lời biếu tôi để làm kỷ niệm. Mai nói:
“Mai xin biếu thầy. Tuy thầy không cao lớn bằng anh khổng lồ này,
nhưng lá gan của thầy thật là to vậy đó.”
Tôi bỡ ngỡ, xúc động, nói
không suông câu cám ơn lòng tốt của Mai và từ chối món quà đặc biệt. Ơ . . .
nhưng sao lại là lá gan? Tôi trơ mặt ra, không hiểu. Một em trai người Hmong đứng bên giải thích:
“Thầy ơi, người Hmong chúng em nói thương ai mình để
trong lá gan, thay vì trái tim đó thầy!”
À, thì ra thế. Lúc ấy, tôi
muốn bắt chước Mai nói với em rằng: “Mai ơi, tên em là một loài hoa rất đẹp ở
xứ tôi, nhưng lá gan của em đẹp hơn vạn lần.” nhưng tôi đâu có nói được lời nào vì đang bị
bao vây bởi đám học trò, kẻ bắt tay, người vỗ vai thăm hỏi hoặc cám ơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét