Khi
đứa cháu ra đời thì sự căng thẳng giữa hai ông bà tạm thời lắng xuống, tự nhiên
cả hai cùng có ý nghĩ phải giữ gìn vì đứa con dâu vừa ở cữ còn nằm trong nhà.
Đã nhiều lần bà nổi cáu định hét lên với ông như mọi bận, nhưng rồi lại nén kịp
khi nghe đứa cháu ọ ẹ trong phòng mẹ nó.
Dạo
trước họ cãi nhau luôn,chả có chuyện gì quan trọng ở cái tuổi gần sáu mươi ấy
nữa.Nhưng thật là kỳ cục, có những chuyện ngày còn trẻ họ dễ dàng tha thứ cho
nhau, nay đến lúc tuổi già, ông nói một câu bà trả lời ngay một tiếng, thế là
cái tức nó cứ ngùn ngụt dâng lên tận họng như ngọn núi phun lửa.
Nguyên
nhân cũng dễ hiểu, chẳng là ông đã trải qua nhiều năm phải im lặng ở trong tù,
lúc được về, vẫn cái thân “cá chậu chim lồng” nên đành nín thở qua sông” vậy.
Bây giờ được dịp nói, ông nói cho hả những lúc phải "ngậm miệng cười
ruồi" cho cái nhân tình thế thái đảo điên. Tuổi già thường quay trở về dĩ
vãng, mỗi lúc nhàn rỗi nó lại hiện về mồn một như cuộn phim, bởi vậy trong ông
lại sống dậy một người trẻ tuổi của mấy chục năm trước, ông muốn phục hồi quyền
“công dân” cho mình, bằng cách lúc nào có dịp là lại bắt đầu câu chuyện bằng
hai chữ “ngày xưa”. Ngày xưa thế này, ngày xưa thế nọ, lũ con ông chỉ cười rồi
bỏ đi, có đứa nào muốn nghe mãi chuyện "ngày xưa" của ông. Chỉ có mỗi
mình bà lúi xúi suốt ngày ở trong nhà, cái chuyện “ngày xưa” của ông thì bà còn
lạ gì nữa. Thét rồi bà cũng nhớ, cái ngon lành của ông ngày xưa thì bà nhớ ít,
còn những cái kỳ cục ngày xưa của ông thì bà nhớ nhiều, bởi vậy hễ ông mở miệng
là bà chẹn họng, họ cãi nhau là vậy.
Thằng
con trai đầu lòng lấy vợ muộn cho nên ông bà chậm có cháu, bởi vậy sự ra đời
của đứa nhỏ là niềm vui cho cả gia đình. Lúc mới đẻ nó giống mẹ như khuôn, từ
đôi mắt cho đến cái miệng, bà chỉ thấy có mỗi “cái ấy” của cháu là giống bố, vì
nó là con trai. Bên này, trẻ con được bọc tã suốt ngày, chứ ngày xưa thằng bố
nó cứ chổng lên trời mà phun nước, có khi vọt ngược bởi cú giơ chân, mặt mũi
ướt tèm lem cả.
Ðược
bốn, năm tháng thằng bé bụ bẫm hẳn ra, mớ tóc tơ loăn xoăn, mượt mà phủ lấy cái
đầu to, cả nhà quả quyết thằng bé thông minh, như nhà bác học to đầu đã đem ánh
sáng đến cho nhân loại. Càng lớn trông thằng bé lại càng dễ thương, đôi mắt to
có vẻ mơ màng dưới hàng mi cong, chiếc môi cũng hơi cong tạo nên một vẻ nũng
nịu rất dễ yêu, lúc này bà lại thấy cháu giống y bố nó hồi còn bé. Phân tách
riêng từng phần, thằng bé có vẻ giống mẹ, nhưng cứ tổng hợp tất cả lại, thằng
bé lại giống bố, bố nó lại giống ông nội nó.
Ái
chà! Hễ nhắc đến ông nội thằng bé, bà không thể nào không nhớ lại hình ảnh ông
những ngày còn trẻ, dạo ấy ông không lẩm cẩm và khó chịu như bây giờ. Của đáng
tội, cũng chỉ lẩm cẩm và khó chịu mấy năm nay, chứ lúc còn trong tù, rồi cho
đến lúc ra, tính ông vẫn xuề xòa, dễ thương sao cũng được, chứ không làm sao bà
chịu nổi, để có ngày vợ chồng con cái có cơ hội dẫn nhau đi Mỹ.
Mỗi
lần nhìn cháu, bà như nhìn thấy hình ảnh thằng bố nó lúc còn bé, cũng vầng trán
vuông vắn, sáng rỡ, nụ cười trẻ thơ toác ra khoe mấy chiếc răng sữa, rồi cả mùi
thơm trên đôi má phính, cái nào nó cũng làm bà xúc động hết. Thằng nhỏ thông
minh thật, biết bà nội cưng nên cứ giẫy nẩy trong chiếc xe nôi, nó ngoác mồm la
nhưng không chảy nước mắt. Bà sốt ruột bế cháu lên:
“
Thằng bố mày, nặng gì mà nặng gớm, vẹo cả xương sườn bà đây.”
Nói
thế thì nói, một tay bà nách cháu, một tay bà quậy xoong bột trên bếp. Thằng bé
nín khóc, nó ngửi thấy mùi bột thơm và cả mùi nước mắm nữa. Món khoái khẩu đấy,
không biết Tây Mỹ nêm nếm bằng gì, chứ hễ quậy bột cho cháu bà luôn nêm vào một
tị nước mắm. Thằng cháu ăn mãi đâm ghiền, hôm nào mẹ nó ở nhà cho ăn mấy hũ
"baby food" bán ngoài chợ, nó vừa ăn vừa phun phèo phèo. Bà biết cháu
bà mà, nó thèm ăn tỵ nước mắm thôi!
Hai
vợ chồng bận đi làm cả, sợ phiền ông bà nên muốn đem thằng bé gửi “Day Care”,
nhưng ông bà nhất định không chịu. Già rồi, ở nhà làm gì không giữ cháu, nhất
là buổi sáng bố mẹ nó đi làm sớm quá, những ngày Ðông trời rét căm căm, nhìn
thằng bé trong chiếc khăn to xù đi nhà trẻ mà cứ thương đứt ruột. Quan niệm
“nước mắt chảy xuống” của cha mẹ Việt Nam đã không cho người già những giây
phút nghỉ ngơi riêng tư, đám trẻ ngày nay mấy đứa đã hiểu cho sự hy sinh ấy, cứ
cho là chuyện tự nhiên. Có “thức lâu mới biết đêm dài”, cha mẹ càng ngày càng
già, thời gian đã cướp đi gần hết sinh lực để héo queo như một quả cam kiệt
nước, còn lại cái vỏ không muốn rụng lúc nào chả được.
Từ
dạo có cháu ông đã bớt nói nhiều, mấy lần định ca cẩm chuyện gì, thằng cháu lại
tưởng ông nói chuyện với nó nên toét miệng cười, ông lo ầu ơ với cháu nên quên
ngay những cái bực mình vẫn thường xảy ra trong nhà. Sự ra đời của đứa cháu như
mở màn cho một thế hệ tiếp nối bằng tiếng khóc, tiếng cười của trẻ thơ, nó
khiến lòng ông vui vẻ để bớt ngậm ngùi dĩ vãng. Ông như cây thông già, thỉnh
thoảng có gió thổi qua lại reo lên với đất trời, để rồi lại làm cái bóng lặng
lẽ che cho người lữ khách ven đường. Ðứa cháu ông như cái bóng của ông ngày
nào, nó đã được sinh ra để thắt lại tình cảm có vẻ đã rời rã, cằn cỗi theo tuổi
đời của ông bà nó, vun đắp tình yêu của bố mẹ nó thêm bền chặt, và là cái mầm
non sẽ nẩy thành lá, thành hoa cho gia đình ông.
Lòng
yêu cháu đã khiến ông phải hy sinh nhiều thứ, dù nhỏ nhặt nhưng khi phải từ bỏ
một thói quen đã lâu, quả ông cũng phải tranh đấu với bản thân dữ dội lắm. Dạo
trong tù, không có thuốc lá để hút, ông và các bạn đã phải thay thế bằng những
“bi” thuốc lào hiếm như vàng. Mùa Ðông lạnh, nhớ vợ con không ngủ được, bên
đống củi sưởi ấm của nhà tù miền Bắc, ông và bạn tù say lâng lâng hơi thuốc lào
để quên đi phần nào nỗi đớn đau, nhục nhằn nơi sơn lâm, chướng khí, cái rét
buốt của tâm hồn âm ỉ nhưng mãnh liệt, tàn khốc hơn cả cái rét buốt của mùa
đông.
Nay
nghe cả nhà nói xa, nói gần về mùi khói thuốc luẩn quẩn trong căn nhà hẹp, ảnh
hưởng không tốt đến cơ thể đứa cháu yêu, cũng như chính cơ thể ông. Không ai
bảo ông bỏ thuốc nhưng tự ông thấy mình phải bỏ, khi nhìn đứa cháu bụ bẫm, dễ
yêu thế kia, mà lúc nào ông cũng muốn đặt lên đôi má phúng phính ấy những nụ
hôn, đã phải thở hít mùi khói thuốc không lấy gì thơm tho , trong diện tích
chật chội cuả căn chung cư, khiến ông phải suy nghĩ. Ông bỏ thuốc thật, cả nhà
ai cũng ngạc nhiên, lúc đầu thật khó chịu, lạt mồm, lạt miệng, lơ ngơ, bần thần
như người mất hồn.
Dân
ghiền thuốc có câu:
“ Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Ðã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”.
Ông
vứt điếu vào thùng rác, rồi có lúc tưởng phải đi mua ngay một chiếc khác, nhưng
chỉ cần nhìn thằng cháu bi bô gọi ông, gọi bà, giụi mái tóc tơ vào ngực ông là
ông có đủ can đảm bỏ tất cả, kể cả phù vân ảo ảnh cuộc đời , cũng vì sức khỏe
của cháu. Ôi! Những “ giọt nước mắt chảy xuống” có ông là người tiêu biểu, để
sẽ thấy lòng yêu thương của ông bà, như giòng suối róc rách từ trên đỉnh núi
chảy về dòng sông.
Những
ngày cháu mọc răng, những lúc cháu ấm đầu khóc cả ngày, bố mẹ nó mệt ít mà ông
bà mệt nhiều. Suốt ngày bà băn khoăn sờ đầu cháu, hôn lên vầng trán phẳng phiu
của đứa bé để ước định nhiệt độ trong cơ thể nó. Thằng bé cự nự vì khó chịu
trong người, có lúc bà ao ước được ốm thay cho cháu, để biết được nó đau ở chỗ
nào và đau làm sao, vì thằng bé chưa biết nói. Nói thế thôi, chứ bà mà lăn ra
ốm là nguy to, lấy ai cơm nước, lấy ai vỗ về thằng bé, công việc của bà tuy
không làm ra tiền, nhưng linh tinh suốt ngày chưa chắc ai đã làm nổi.
Thời
trẻ tuổi, cũng như bao nhiêu người đàn ông khác, thành công của họ được đánh
giá bằng sự ngưỡng mộ của phụ nữ, cho nên ông cũng thích thú với những mối tình
văn nghệ của mình, để bà cứ ấm ức mãi đến tận bây giờ. May cho ông, lúc tù tội
bà không bỏ rơi, vẫn thăm nuôi đầy đủ, con cái ăn học đàng hoàng, chứ còn cái
đám “mèo mả gà đồng” kia, nó biến ngay từ lúc ông rũ áo phong sương với mai
vàng, mai bạc, để trở thành người không chỗ đứng trong xã hội. Bây giờ ông mới
biết thương vợ, vì ngày còn trẻ, ông chưa thấy thích thú lắm để lúc nào cũng
quấn quýt bên vợ con, ông mặc kệ bà với lũ con, như đấy là bổn phận của bà, cho
nên ông không nhìn thấy cái vất vả của người phụ nữ trong trách nhiệm làm vợ và
làm mẹ.
Từ
lúc có cháu ông mới thấy thương bà hơn, mới thấy cần phải đỡ đần công việc nhà
cho vợ. Dạo trước, cứ ăn xong là ông “khểnh” ra đọc báo, xem Tivi, uống trà để
rồi lại bắt đầu e hèm câu chuyện “ngày xưa”. Nhiều lần cãi nhau cũng chỉ vì
chuyện ấy, mặt sưng mày xỉa với nhau đôi ngày rồi thì vẫn cơm chung một niêu,
ngủ chung một giường để tha hồ "đồng sàng mà dị mộng". Bây giờ thì
ông đã hiểu tại sao bà hay chẹn họng ông, chống lại ông vì không thể nghe nổi
một câu chuyện nói đi nói lại hằng trăm lần.
Hôm
nay, có người mời ông đi ăn cưới, ông loay hoay tìm đôi giày mà không thấy đâu.
Hôm nọ, thằng cháu mới lẫm chẫm biết đi cứ xỏ chân nghịch đôi giày vía của ông
nội, bà sợ hỏng đã cất đi chỗ khác, rồi quên. Tìm không được, ông đâm bực mình:
“Lạ
thật, nhà có đàn bà mà cái gì cũng mất.”
Bà
đang ngồi trông cháu, nghe được đứng phắt dậy, lâu lắm rồi ông bà không cãi
nhau:
“Ðàn
bà, cái gì mà đàn bà, không có đàn bà đã chả được thế.”
Cuộc
đấu khẩu sắp có phần dữ dội thì “huỵch” một phát, thằng nhỏ ngồi trên “sofa”
ngã chúi đầu xuống đất, khóc ré lên. Cả ông lẫn bà cùng đổ xô đến, sót sa ôm
lấy cháu, ông cũng quên mà bà cũng quên, không nghĩ đến chuyện cãi nhau.
Nguyên
Nhung