Thú vui nhiếp ảnh thơ văn
Sẻ chia cùng bạn tri âm khắp miền.

đào anh dũng




25 tháng 2, 2014

Tiểu Tử - Viết Một Chuyện Tình

Mấy lúc gần đây, không hiểu sao, tôi bỗng thèm viết một chuyện tình !
Từ ngày tập tễnh viết văn, nhớ lại, tôi chưa từng viết chuyện tình nào
cả. Điều này làm tôi cũng ngạc nhiên, bởi vì, chuyện tình là chất liệu
mà các nhà văn khai thác thừơng nhứt và nhiều nhứt. Từ những ngòi bút
măng non của tuổi học trò qua những nhà văn " tài tử " hay đã thành
danh… có ai không từng viết chuyện tình ? Chỉ có tôi là chưa. Lạ thật
!

Vậy mà bây giờ tôi bỗng thèm viết một chuyện tình. Ở cái tuổi về chiều
của tôi, " thèm " như vậy không biết có phải là triệu chứng của sự hồi
xuân hay không ? Người ta nói mấy ông già ở tuổi hồi xuân " ghê " lắm
, " mắc dịch " lắm. Vì vậy, khi về già, tôi hay bị ám ảnh bởi cái tuổi
hồi xuân đó, và không biết lúc nào " nó " bùng ra để biến tôi thành
ông già " mắc dịch " ! Cho nên khi cảm thấy thèm viết chuyện tình, tôi
tự hỏi : " Có phải là nó đến đó không ? ". Hỏi mấy ông bạn già – già
hơn tôi để có nhiều kinh nghiệm – thì người nào cũng cười cười : " Nó
đó !". Nếu thật là " nó" thì cái sự hồi xuân của tôi không đến nỗi nào
" ghê " lắm. Trái lại, nó có vẻ nhẹ nhàng tao nhã nữa. Bởi vì tôi chỉ
có thèm viết chuyện tình thôi !



Dĩ nhiên, tôi không có cao vọng viết một chuyện tình loại " để đời "
như " Lan và Điệp ", hay như " Roméo và Juliette ". Tôi chỉ thèm viết
một chuyện tình tầm thường, chẳng éo le gút mắt gì hết, nhưng phải là
một chuyện tình sống thực.


Vậy là đầu hè năm nay, tôi bắt đầu giàn dựng " một chuyện tình "…


Muốn viết một chuyện tình, đầu tiên là phải có một chàng trai và một
cô gái. Dễ quá ! ( Còn chuyện tình giữa hai đực rựa với nhau hay giữa
hai kiều nữ với nhau mà người ta gọi một cách văn vẻ là " đồng tính
luyến ái "… loại chuyện tình tréo cẳng ngỗng đó không nằm trong sự
thèm viết của tôi ! Mô Phật ! ). Chàng trai không cần phải " đô con ",
cô gái không cần phải đẹp như người mẫu. Hai nhân vật mà tôi muốn "
dựng " lên phải giống như mọi người bình thường, nhưng họ phải trẻ (Lạ
quá ! Sao chuyện tình nào cũng phải có nhân vật trẻ hết ! Làm như ở
lứa tuổi sồn sồn chuyện tình bị … xơ cứng, không gợi cảm hứng cho nhà
văn nữa !) Và họ phải dễ thương !


Ở nhà vợ chồng tôi không có bàn viết. Lâu nay, tôi viết ở bàn ăn. Cho
nên, muốn viết phải … canh giờ, bởi vì gần tới giờ cơm là phải đi chỗ
khác. Sau bữa ăn, dọn dẹp xong, mang giấy bút trở lại bàn ăn để viết
tiếp thì ý văn nó đã đi đâu mất !


Lần này, thèm viết chuyện tình – lại là lần đầu tiên viết chuyện tình
– tôi muốn được viết một cách … trơn tru, nghĩa là không bị bắt buộc
ngừng ngang để trả bàn ăn lại cho bữa ăn, và tôi được tự do ngắt câu
văn ở chỗ nào mà tôi xét thấy ý văn vẫn nằm nguyên ở đó ngoan ngoãn
chờ, và nhứt là xấp giấy tôi viết vẫn giữ nguyên vị trí xiên xiên của
nó trên mặt bàn – tôi có tật đặt giấy không thẳng góc với cạnh bàn mới
viết được ! – để khi tôi ngồi trở lại viết tôi không cảm thấy có sự
gián đoạn ! Muốn được như vậy, tôi phải có một cái bàn riêng để viết.


Chủ nhựt đó, tôi nói chuyện cái bàn viết cho hai thằng con tôi nghe,
khi chúng nó chở gia đình lại nhà tôi ăn cơm ( Nhà của vợ chồng tôi ở
trong một làng nhỏ – ngoài đồng, xa Paris. Các con tôi, vì đều làm
việc ở Paris, nên có nhà ở trong đó. Cuối tuần, tụi nó hay chở nhau ra
thăm ông bà nội vì nhà có sân trước vườn sau rộng rãi cho mấy đứa nhỏ
chạy giỡn nô đùa ). Tụi nó hỏi :

- Ba cần cái bàn bao lớn ?

- Không cần phải loại bureau lớn làm gì. Ba chỉ cần một bàn nhỏ cở sáu
tấc một thước có một hộc ở giữa để bản thảo và giấy bút. Nhẹ nhàng vậy
thôi.


Hai hôm sau, thằng con lớn chở tới một cái bàn đúng y như tôi muốn.
Tôi cho nó đặt bàn ngay trong phòng vợ chồng tôi ở trên lầu, cạnh cửa
sổ. Ngồi ở đó, tôi có cái nhìn thật thoải mái. Nhìn lên là trời cao
trong vắt – thời tiết đang là mùa hè – Nhìn xuống là khu vườn sau nhà
tôi với mấy cây ăn trái đầy trái và khoảng đất trồng rau trồng cà của
vợ tôi. Cuối vườn là hàng rào trắc bá diệp thấp thấp. Tiếp theo đó là
vườn sau của nhà phía bên kia, lớn hơn vườn nhà tôi, bởi vì nó có một
hồ tắm.


Tôi nói với con tôi :

- Đó ! Phải ngồi một chỗ như vầy, phải có cái nhìn như vầy, mới có
hứng viết văn. Con thấy không ?


Thích quá, tôi vói lấy xấp giấy trắng và cây bút bi để ở đầu giường
đem đặt lên bàn, rồi ngồi vào ghế, khoanh tay ngã người lên thành ghế,
mắt nhìn thẳng ra cửa sổ. Tôi có cảm tưởng như chuyện tình mà tôi muốn
viết, tôi vừa viết xong !


Đúng lúc đó, vợ tôi bước vào phòng. Bả la lên :

- Trời ơi ! Đặt cái bàn viết kiểu gì kỳ vậy ! Phòng chỉ có một cửa sổ
mà ổng ngự ở đó không cho ai xài hết. Bộ hết chỗ để rồi sao ?

Thằng con giải thích :

- Ba viết văn, ba cần ngồi ở chỗ có cái nhìn khoáng đãng. Với lại ba
cũng đâu có che hết cái cửa sổ đâu mà má la.

- Ổng bầy đặt chuyện đó. Xưa nay, ổng viết ở bàn ăn chớ viết ở đâu ?
Bây giờ, ổng đòi mua bàn để có cớ cho ổng ngồi ngay cửa sổ ổng dòm con
đầm ở truồng nằm phơi nắng ở nhà bên kia kìa.


Thằng con cười hề hề, còn tôi thì nghe như vừa bị tạt cho một xô nước lạnh !


Sự thật, con đầm nhà bên kia, mùa này, sáng nào cũng ra hồ tắm bơi lội
rồi phơi nắng, nhưng nó có mặc mai-dô đàng hoàng. Và chỗ nó nằm phơi
nắng – nhìn từ cửa sổ phòng tôi – bị mấy cây ăn trái của vườn nhà nó
che khuất. Mà cho dù nó có nằm ngay trước mắt chắc tôi cũng không
ngừng viết để nhìn. Bởi vì con đầm đó đã lớn tuổi, thân hình mập phì
có ngấn có ngấn, chẳng còn một nét nào hấp dẫn để bắt cái nhìn của tôi
dừng lại lâu lâu…


Tôi làm thinh, đứng lên tự tay kéo cái bàn đẩy vào một góc phòng.
Thằng con tiếp tay đem cái ghế qua. Vợ tôi nói có vẻ hài lòng :

- Đó ! Vậy, coi được không.


Tôi vẫn làm thinh, ngồi lên ghế lấy xấp giấy trắng đặt nằm xiên xiên
về phía trái rồi cầm bút để viết cái tựa " Một Chuyện Tình ". Tôi viết
chậm rãi, châm chú, kẻ từng chữ một, loại chữ in – chữ hoa – loại chữ
mà mình có thể đồ đi đồ lại từng nét nhiều lần, để đợi thời gian đi
qua … Và để cho vợ con tôi thấy tôi đang viết, tôi cần sự yên tịnh để
viết, và nhứt là tôi cần ngồi một mình để viết.

- Thôi ! Mình xuống dưới nhà đi má. Để cho ba viết. Với lại con phải
trở về Paris ngay, sợ kẹt xe.


Khi mẹ con nó đi ra, tôi chưa viết xong chữ " Một " ! Tôi buông bút,
nhìn bức tường màu trắng đục nằm cách tôi sáu tấc mà thấy ở đó một
khoảng không mênh mông lễnh loãng, còn tôi thì chơi vơi một mình, chới
với một mình. Tự nhiên, tôi thở dài…


Tâm trạng đó rồi cũng đi qua ( Trời đã ban cho tôi tiếng thở dài thật
là mầu nhiệm ! ) Tôi lại tiếp tục giàn dựng chuyện tình trong đó đã có
hai nhân vật chánh.


Bây giờ, phải cho họ gặp nhau. Nếu là chuyện xảy ra ở Pháp thì dễ quá
: trai gái ở đây gặp nhau " hà rầm ", không có cơ hội họ cũng bày ra
cơ hội. Đằng này, chuyện tình mà tôi muốn viết là chuyện tình Việt Nam
một trăm phần trăm. Thành ra phải có " cái nhìn " khác.


Thời bây giờ, chắc không còn chuyện ông mai dẫn chàng trai đi coi vợ
như thời tôi còn trẻ. Còn sắp xếp để cô phù dâu phải lòng anh phù rể
thì sao có vẻ tiểu thuyết quá ! Cho nên, tôi cho họ gặp nhau ở nhà một
người bạn chung, trong một dịp nào đó, sinh nhựt hay đám giỗ hay tiệc
tất niên gì gì .


Đến đây thì hơi khó. Bởi vì tôi không biết khi chàng trai " chịu " cô
gái, anh phải làm sao ? Còn cô gái ? Làm sao thấy cô ta " chịu " chàng
trai ? Và lúc nào thì hai cái " chịu " đó … đụng nhau để có sự " giao
lưu hai chiều " ? Có lẽ chàng sẽ mỉm cười nhìn nàng. Có lẽ nàng sẽ mỉm
cười nhìn lại với hai vành tay ửng đỏ ( Nghe nói con gái nhạy cảm hơn
con trai trong lãnh vực tình yêu ! Ở đây chắc đúng như vậy ).


Sau vài tua trao qua trao lại cái nhìn, chắc chàng phải tìm cách lại
gần nàng để bắt chuyện ( Đọc nhiều chuyện tình, tôi để ý gần như lúc
nào đàn ông cũng " đi " trước ) Và chắc nàng chỉ đợi có như vậy, cho
nên thấy nàng tiếp chuyện ngay và có phần phấn khởi nữa.


Vậy rồi họ quen nhau. Rồi hẹn hò ( Có chuyện tình nào mà không có cái
vụ hẹn hò ? ) Ở Sàigòn – chuyện xảy ra ở Sàigòn, điều này tôi quên nói
ở đoạn trước ! – có nhiều chỗ để hẹn hò. Hồi đó, hồi mấy con tôi còn
nhỏ, tôi hay đưa tụi nó đi sở thú hay vườn Tao Đàn. Tôi còn nhớ đã
thấy biết bao nhiêu cặp hẹn hò ở hai nơi đó … Vậy, chỗ hẹn hò cho hai
nhân vật trong chuyện không thành vấn đề.


Họ hẹn nhau và gặp nhau vài lần hay nhiều lần gì đó, không quan trọng.
Điều quan trọng là không có vụ lỗi hẹn trong chuyện tình mà tôi muốn
viết bởi vì tôi thấy lỗi hẹn, rồi giận hờn, rồi nước mắt … v.v... nó
cải lương quá và sự lỗi hẹn đã được nói quá nhiều rồi trong các chuyện
tình. Bây giờ, viết một chuyện tình không có lỗi hẹn, có lẽ nó sẽ gần
gũi với cuộc sống bình thường hơn. Nó thật hơn và chắc chắn sẽ dễ viết
( Lần đầu tiên viết chuyện tình, chọn cái gì dễ dễ để viết cho nó ...
trơn ! )


Cái không dễ viết – đối với tôi – là những chi tiết. Ví dụ như đoạn
chàng và nàng bắt đầu tỏ tình sau nhiều lần hò hẹn. Họ phải làm sao ?


Nhớ lại, hồi đó, tôi đi coi vợ mấy lần. Lần nào cũng có một ông mai
dẫn đi (Sao hồi xưa có nhiều người làm nghề mai mối quá. Vậy mà thiên
hạ vẫn chê rằng : " Ở đời có bốn cái ngu : làm mai, lảnh nợ, gác cu,
cầm chầu " ! ) Đến lần coi vợ thứ mấy tôi không nhớ nhưng nhớ là lần
cuối cùng, tôi … gật đầu. Vậy là sau đám hỏi cô gái đó và tôi " dính "
nhau rồi dính luôn cho đến bây giờ ! Dĩ nhiên là có lễ " sỉ lời " rồi
có đám cưới ( Lễ " sỉ lời " là đàng trai trầu rượu đến đàng gái xin
xác nhận ngày làm đám cưới, mặc dù hai bên đã OK với nhau từ lâu ! )
Chuyện tình hồi đó thật là dễ ợt. Bởi dễ ợt như vậy cho nên viết
chuyện tình trong bối cảnh thời bây giờ, có nhiều chỗ tôi không biết
tả ra làm sao cho sống thật !

Tôi đã đọc nhiều chuyện tình, chẳng lẽ tôi " cóp " lại sao ? Thì thôi
cố gắng tưởng tượng vậy.

… Sau nhiều lần hò hẹn – có đi xi-nê, có đi ăn phở, có đi ăn kem
…v.v... những thứ phải có để hai người gần lại – một hôm ( Thường thì
là một ngày đẹp trời, bởi vì bộ điên sao mà hò hẹn dưới mưa ? ), chàng
làm gan cầm lấy bàn tay của nàng, cầm bằng cả hai bàn tay, thận trọng
như cầm một báo vật sợ nó tan đi hay rơi mất. Nàng không rút tay về.
Chỗ này, có lẽ nàng sẽ thẹn thùng nhìn xuống ( Đẹp quá ! Phản ứng đầu
tiên của người con gái ! ) Rồi, như đã lấy một quyết định, nàng vừa
đặt bàn tay còn lại lên hai bàn tay của chàng vừa ngước lên để hai nụ
nhìn giao nhau. Rồi giữ nguyên như vậy rất lâu … rất lâu …


Đọc tiểu thuyết thấy nói " chàng và nàng nhìn nhau đắm đuối ". Ở đây,
chắc " đắm đuối " là nhìn như vậy. Tôi chưa từng biết cái nhìn đắm
đuối nó ra làm sao nhưng hiểu nghĩa đen của mỗi từ ( " đắm " là chìm ,
" đuối " là kiệt sức ), tôi tưởng tượng ra được trạng thái kỳ diệu của
đôi trai gái nhìn nhau đắm đuối : không còn biết gì hết, không còn
thấy gì hết, tất cả đều tan biến, không gian thời gian … chỉ còn lại
có hai người là hiện hữu. Tôi nghĩ : tình yêu chắc phải tuyệt vời lắm
nên con người mới chết lịm được như vậy.


Giàn dựng đến đây, tôi cảm thấy thật vui. Bởi vì, dù không có kinh
nghiệm sống, tôi vẫn đưa " Một chuyện tình " đi một cách tự nhiên như
thật. Tôi đứng lên bước lại cửa sổ hít một hơi dài sảng khoái. Qua kẽ
lá hàng cây, tôi thấy lổ đổ dạng con đầm nhà bên kia đang nằm phơi
nắng. Tôi tiếc sao nó không đẹp để tôi khỏi thấy oan ức khi bị vợ tôi
" nói nầy nói nọ ". Rồi tôi lại nghĩ : tôi có nhìn người đàn bà đẹp
thì cũng giống bả đứng " chết trân " khi bả nhìn kim cương lấp lánh.
Vậy mà sao...

Có tiếng vợ tôi dưới nhà nói vọng lên :

- Trời nắng giữ. Ông xuống tưới giùm vườn rau, coi ông. Con đầm nó ra
phơi nắng rồi kìa !


Tôi bật cười, lặng lẽ xuống tưới rau mà thầm phục vợ tôi có tài ghép
vào với nhau hai sự kiện hoàn toàn khác biệt.

Suốt buổi đó, tôi tưới rau, quét lá khô, nhổ cỏ dại mà trong đầu vẫn
giàn dựng tiếp chuyện tình của đôi trai gái yêu nhau mà tôi đã để lại
trên bàn viết.

… Họ nhìn nhau đắm đuối, rồi, không kềm được, chàng ôm lấy nàng. Chàng
nghe trong vòng tay thân hình mềm mại của người yêu run lên nhè nhẹ.
Nàng hơi ngã người về phía sau, nhịp thở đức khoảng, bờ môi khép hờ.
Mùi con gái tiết ra thoang thoảng làm chàng ngây ngất ! Chàng cuối
xuống hôn nhẹ lên môi người yêu, hơi vội vã như sợ mất đi phút giây
huyền diệu đó. Nàng nhắm mắt …

Ở đoạn này, điều mà tôi chắc chắng có, là cái " mùi con gái ". Bởi vì
hồi đó, trong buổi " ăn nằm " đầu tiên, tôi khám phá ra cái mùi con
gái trong thân thể của vợ tôi. Cái mùi đó thật là nhẹ nhàng trinh
nguyên nhưng vô cùng quyến rủ. Nó phai đi lần lần theo thời gian để
được thay vào bằng mùi dầu thơm đàn bà, cái mùi nhân tạo có khi đậm
đặc đến tàn nhẫn !

Khi tôi hình dung " nàng nhắm mắt ", tôi ngẩn ngơ hết mấy phút. Làm
sao người con gái, khi nhắm mắt như vậy, có thể … hốt hồn mình được ?
Lúc đó, chắc tình yêu đã phải căng đầy đến mức độ mà chẳng còn gì
chẳng phải cho nhau … Đẹp quá !

Rồi thì chắc phải cho họ hôn nhau thật sự, hôn nhau nồng nàn. Họ nhắm
mắt hôn nhau để chỉ còn cảm nhận có tình yêu đang quánh đặc trên làn
môi…

Một lúc sau, một lúc lâu sau, họ buông nhau ra để nhìn nhau. Nhưng lần
này không phải cái nhìn đắm đuối mà là cái nhìn sáng rực hạnh phúc,
cái nhìn được kèm theo cái mỉm cười mãn nguyện, bởi vì họ đã nói hết
cho nhau những gì họ muốn nói, dù họ không có nói lên bằng lời… Dễ
thương không ?


Rồi họ cặp nhau đi, ôm lấy lưng nhau mà đi, bước đi phiêu phiêu như
không chấm đất. Bởi vì họ còn ở trên mây tình yêu…


Đến đây, tôi nghĩ có thể tạm chấm dứt chương đầu của " Một chuyện tình
". Cứ để nó " lửng lơ " như vậy mà đẹp. Tôi rất hài lòng và có cảm
tưởng như tôi vừa đi chung với chàng trai và cô gái đó trên một đoạn
đường đầy hoa thơm cỏ lạ mà tôi chưa từng được đi qua !


Làm xong công chuyện ở vườn sau, tôi lên lầu thay đồ đi tắm. Tôi thấy
trên bàn viết có mấy chồng sách đặt ngổn ngang. Bước lại xem, thì ra
là mấy quyển Lịch Sách Tử Vi của vợ tôi. Mấy quyển này – nhiều lắm,
bởi vì năm nào bả cũng mua ba quyển khác nhau và những quyển của mấy
năm trước bả vẫn còn giữ lại – bả để trong tủ quần áo thay vì để trên
kệ sách phòng khách, bởi vì bả chỉ đọc nó ở trên giường ! Tôi hỏi vọng
xuống nhà:

- Ủa ! Sao bà để sách ở đây vậy ?

- Để tạm, trong khi tôi soạn lại tủ quần áo. Không có chiếm bàn viết
của ông đâu mà lo !


Tôi đưa hai tay lên không rồi bỏ mặc cho nó rơi xuống. Cử chỉ tôi đầu
hàng đó ! Bởi vì tôi đã quen với cái " tạm " của bả, cái " tạm "
thường kéo dài năm bảy tháng, đôi ba năm !


Tắm xong, tôi hăng hái ngồi vào bàn viết, mặc dù tôi bị vây quanh bởi
mấy chồng sách tử vi ! Chuyện tình còn đang ngầy ngật trong tôi, tôi
phải viết ra ngay để đừng sót một chi tiết nào hết, đừng quên một rung
động nào hết. Tôi viết say sưa như viết chuyện thật đời mình ! Càng
viết, tôi càng nghe nhẹ trong lòng, làm như là những gì chất chứa ở
trong đó được trút ra lần lần trên từng trang giấy…


Tôi viết mà quên thời gian. Có tiếng vợ tôi gọi từ dưới nhà :

- Ông ơi ! Xuống ăn cơm.

Tôi " Ờ ", nhưng vẫn tiếp tục viết. Được mấy dòng, tôi tự nhủ : "
Xuống ăn chớ để bả đợi ".

Tới giữa cầu thang, nhìn xuống thấy trên bàn ăn có mấy dĩa đồ ăn, một
tô cơm và chỉ có một cái chén và một đôi đũa. Ngồi vào bàn, tôi hướng
về phía bếp, hỏi :

- Bà không ăn sao ?

- Ăn rồi ! Đợi ông ăn đặng đói rã ruột à !

Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu : " Hay là mình trở lên viết tiếp
chuyện tình ? Ăn một mình thì ăn lúc nào không được " Nhưng tôi vẫn
bới cơm vào chén vì thấy nếu đã ngồi vào bàn rồi mà bỏ đi thì vợ tôi
sẽ cho rằng tôi chê cơm của bả, rồi sanh chuyện ! Bả đâu hiểu rằng,
đối với tôi bây giờ, ăn không quan trọng bằng viết, bởi vì tôi đang
thèm viết.

Bỗng tôi nhớ lại câu nói của một đại văn hào người Pháp hay người Mỹ
gì đó tôi quên, rằng : " Thông thường , các nhà văn hay viết những gì
mà họ không có ".

Tôi ngẩn ngơ một lúc rồi đưa chén lên môi lùa cơm vào miệng như tôi
lùa lá khô vào một góc vườn, hồi nãy.

Tiểu Tử

15 tháng 2, 2014

Ngân Triều - Đánh Cho Để Dài Tóc



(Trích Tuyển tập Thơ & Bình Thơ Hán Nôm
Ngân Triều biên khảo xuất bản nay mai)
Đánh cho để dài tóc
                              Lời hiểu dụ Tướng sĩ của Vua Quang Trung

Tượng Vua Quang Trung (nguồn: Google Images)




                �� ,
                �� .
                      .
                       .
                                          
                .

(Mục đích, chính nghĩa của Ta là đánh đuổi giặc để bảo vệ nền văn hóa dân tộc lâu đời, để gìn giữ những phong tục tập quán truyền thống của cha ông.
 Ba câucuối,nói lên tinh thần quyết chiến, quyết thắng và lòng tự hào về đại quân và dân tộc anh hùng, quyết tâm đánh diệt sạch, cho quân giặc tan tác, không còn chiếc xe ngựa nào trốn về, không còn một manh giáp nào che tấm thân đầy thương tích.  Đánh cho chúng nó rõ mặt Ta là ai, cho chúng bây một trận đùng đùng sấm vang của đấng chủ tể của Nước Nam anh hùng, lừng danh thanh sử!)
.


Lời  bình, Ngân Triều

( I ) Xuất  xứ & chủ đề:

Lời tuyên bố đanh thép, bất hủ trên là lời hiểu dụ Tướng sĩ tại ThànhThọ Hạc[*], nay là thành phố Thanh Hóa.  Trước khi tiến quân, Vua Quang Trung cho làm lễ “thệ sư” , cho quân sĩ tuyên thệ một cách vô cùng trang trọng.  Vua Quang Trung  hiểu dụ tướng sĩ với những lời tuyên bố hào hùng, khẩu khí của một vị anh hùng dân tộc, ngời sáng tinh thần độc lập tự chủ, nung nấu  ý chí chiến đấu, tự hào, khẳng định mạnh mẽ niềm tin tất thắng về uy lực dũng mãnh, hùng tráng của đoàn quân, của dân tộc ; một lời thề khẳng khái quyết thắng, quyết tâm tiêu diệt giặc thù.
 ([*] Theo Wikipedia, Thành Thọ Hạc hay Hạc Thành, còn gọi là Trấn thành Thanh Hóa, là trấn  lị của trấn Thanh Hóa thời  nhà Nguyễn.
Năm 1804, vua Gia Long hạ chiếu chỉ di dời lị sở của trấn Thanh Hoá từ làng Dương Xá, xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hóa đến làng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn (nay thuộc phường Đông Thọthành phố Thanh Hóa), đồng thời tiến hành xây dựng thành trấn  lị. Trấn thành Thanh Hóa hình lục lăng, có chu vi 630 trượng (gần 2,6 km), cao 1 trượng (4 m), có hào bao quanh mặt ngoài. Thành mở 4 cửa: Cửa tiền phía Nam, cửa hậu phía Bắc, cửa tả phía Đông Nam, cửa hữu phía Tây Nam. Trong Thành là nơi ăn ở, trị vì của các quan đầu tỉnh.
Về Hạc Thành, Đồng Khánh dư địa chí viết: Thành tỉnh ở địa phận xã Thọ Hạc huyện Đông Sơn. Thành xây bằng gạch đá, chu vi 630 trượng (có lẽ 2960 m), cao 1 trượng (Có lẽ là 4,7 m), có 4 cửa, hào rộng 9 trượng 3 thước (có lẽ 43,7 m) sâu 7 thước (có lẽ 3,3 m). Các vệ Tuyên Vũ, Hùng Vũ, Nhuệ Vũ bao vòng phía trước; Quảng Vũ, Nghĩa Vũ bao vòng  phía sau; Túc Vũ, Công Vũ bao vòng bên trái; Trang Vũ, Kiện Vũ, Cương Vũ bao vòng bên phải. Đồn thuỷ quân ở địa phận Nam Ngạn, hai vệ Tả, Hữu đóng ở đây. Đàn Xã tắc ở phía Tây Bắc thành. Đàn Tiên Nông ở phía đông nam thành. Đàn Sơn xuyên ở phía tây nam thành. Văn miếu ở phía Đông Bắc thành. Miếu Hội đồng ở phía nam thành. Vũ miếu ở phía Tây thành. Học xá ở phía nam thành. Trường thi ở phía Đông Bắc thành.
Giống như các hào lũy xây dựng đầu triều Nguyễn Gia Miêu, thành có kiến trúc Vauban. Kiểu cấu trúc phòng ngự lợi hại, từng được thử thách ở Diên Khánh trước quân Tây Sơn (và ở Quy thành Sài Gòn trước chính quân đội Triều Nguyễn).

( II) Lời Bình Ngân Triều
 
Hai câu đầu:
 Mục đích và chính nghĩa của Đại Quân Tây Sơn, của Nước Nam:
 Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng.
                   ��,
                 �� .
Đen răng  �� là phong tục nhuộm răng đen để răng bền chắc, không bị sâu răng.  Đây là một nét văn hoá xưa, xuất phát từ tinh thần độc lập, tự cường chống lại mưu đồ đồng hoá nhân dân ta  từ thời k bị đô hộ ngàn năm.  Tóc bỏ đuôi gà với hàm răng đen nhánh là model thời trang duyên dáng của người phụ nữ xưa:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. 
Năm thương cổ yếm đeo bùa,
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng.
Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương ăn nói dịu dàng thêm xinh.
Chín thương em ở một mình,
Mười thương con mắt hữu tình với ai
Dài tóc   �� tứclà để tóc dài.  Lịch sử mái tóc, hàm răng của dân ta cũng đã trải qua nhiều cuộc thăng trầm, đổi thay như vận nước. Nhưng các sách chỉ ghi chép một cách tổng quát. Đại khái chúng ta được biết:
Về thời Hùng Vương, ai cũng xăm mình. Ai cũng búi tó hoặc cắt tóc ngắn (nhưng cũng có người bỏ xoã tóc hoặc tết đuôi sam). Ai cũng thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay. Người ta nhuộm răng, ăn trầu.(Uỷ ban Khoa Học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, tập 1, Khoa Học Xã Hội, 1971, tr. 48).
Thời nhà Trần, người trong nước đều cạo đầu, cho nên trong Sứ Giao Châu thi tập của Trần Cương Trung nhà Nguyên chua rằng:
 "con trai đầu trọc, người nào có quan chức thì trùm đầu bằng khăn xanh, nhân dân đều như sư cả".
Tục cắt tóc này đến Hoàng Phúc nhà Minh mới cấm, nay dân ở Kiên Lao và Trà Lũ huyện Giao Thuỷ (Nam Định ngày nay) vẫn còn giữ tục ấy.(…) Đàn bà cắt tóc để lại 3 tấc tết ở trên đỉnh đầu, buộc lấy đầu sợi tóc rồi búi chặt lại và cài bằng trâm, ở đằng sau gáy không có tóc, cũng không xoa dầu xoa sáp gì cả. (…) Tôi nhận thấy, đấy là phong tục triều nhà Trần, đến bản triều ngày nay thì tục đội khăn xanh, mặc áo thâm, cắt tóc và xăm mình đã thay đổi rồi. (Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 68-70).
Lê Quý Đôn cho biết thời nhà Trần người trong nước đều cạo đầu, nhân dân đều như sư cả, nghĩa là dân ta gọt tóc hay ít nhất cũng là cắt tóc ngắn.
Đến thời thuộc Minh (1414-1427) Hoàng Phúc ra lệnh cấm dân ta cắt tóc.
Rồi giặc (chỉ quân Minh) chia châu đặt huyện, đắp thành đào hào; đóng quân trấn giữ, hơn hai chục năm, biến phong tục thành tóc dài răng trắng, hóa làm người Ngô cả. Than ôi! Họa loạn tột mực đến như thế ư? (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư).
Sử sách không cho biết từ năm 1428, năm Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh và lên làm vua, thì đầu tóc dân ta ra sao? Chỉ biết rằng năm 1470, Lê Thánh Tôn cấm người không phải là sư sãi không được gọt tóc (Đại Việt sử kí toàn thư).
Lê Thánh Tôn bắt dân chúng phải để tóc dài. Năm Lê Quý Đôn viết sách Kiến văn tiểu lục (1777), thì tục cắt tóc và xăm mình đời nhà Trần đã thay đổi, nghĩa là dân ta vẫn còn để tóc dài.
Tóm lại, từ năm 1470 đến khoảng vài năm sau năm1777 dường như dân ta liên tục để tóc dài. Nếu suy đoán thêm thì có thể nói rằng từ thời thuộc Minh đến gần cuối đời nhà Lê dân ta để tóc dài.
(Theo Wikipedia)
Đen răng  �� là phong tục nhuộm răng của dân tộc ta, và có thể của một số bộ tộc thuộc  dân tộc Việt Nam là một trong những phương sách chống lại sự đồng hoá của người Tàu đô hộ.
Như vậy, “Đánh cho để dài tóc, / Đánh cho để đen răng”, Vua Quang Trung tuyên bố một cách hùng hồn về mục đích đánh đuổi quân giặc xâm lược Mãn Thanh là để độc lập, tự cường để lưu giữ phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc Việt.  Tuyên ngôn mở đầu trong Bài Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi năm 1427, sau khi chiến thắng quân xâm lược Giặc Minh, ngời sáng như một áng thiên cổ hùng văn, đã minh định lập trường chính nghĩa huy hoàng của dân tộc:

Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
[*]
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Đại cáo Bình Ngô – NguyễnTrãi.

Nguyên văn chữ Hán
義之 , ,
弔伐
惟, ,
為文
封域 ,
俗亦
之肇 ,
宋元
強弱
世未

Nghĩa là
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Bình Ngô đại cáo – NguyễnTrãi - Bản dịch Ngô Tất Tố

*****
[*] Triệu, Đinh, Lý, Trần Theo quan điểm ngày trước, nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam. Có sách in là "Đinh, Lê, Lý, Trần", bỏ nhà Triệu đi, không rõ là do dịch giả hay biên tập viên, nhưng như vậy không tôn trọng nguyên tác.

Như vậy, mục đích quật khởi tiêu diệt Quân Mãn Thanh xâm lược lần nầy là để giữ được phong tục tập quán muôn đời của cha ông, của dân tộc Việt.  Đó là lập trường chính nghĩa xác đángcủa Đại quân Tây Sơn, của Hoàng Đế Quang Trung Nước Ta.

Ba câu sau:Tinh thần quyết chiến, quyết thắng và lòng tự hào về đại quân và dân tộc anh hùng

Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn.
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
                        .
                       
                                       

Chích luân bất phản, : xe còn một bánh, không tài nào quay lại, ( binh mã-xa  tan tác)
Phiến giáp bất hoàn,  : giáp còn một manh, khó về.  (bộ binh te tua trần trụi, thảm hại)
Sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ, : Cho lịch sử ghi Nước Nam anh hùng đây có chủ .  Hay khái quát lên, nâng cao lên, nhấn mạnh khẩu khí, có thể hiểu cả câu:
“Đánh cho chúng nó một trận để tỏ mặt Ta là ai, một trận đùng đùng sấm vang của đấng chủ tể  Nước Nam anh hùng, lừng danh thanh sử”
(Sử tri = Lịch sử biết, trong văn cảnh nầy, có thể hiểu là sử ghi). 
Giá trị nghệ thuật của những lời hiểu dụ khẩu khí, quyết liệt, đầy sức thuyết phục ở chỗ sử dụng những điệp từ đặt ở đầu câu, dồn dập, hùng hồn như réo rắt kêu gọi; như nung nấu can trường; như một lời thề xung trận ào ạt, dạt dào.  “Đánh cho để...”, “Đánh cho để...”;  “Đánh cho nó...” , “Đánh cho nó...”. 
Có người nói, về một số từ ngữ Hán Việt và cú pháp trong những lời hiểu dụ đó, có phần nào chưa mang tính đại chúng. 
Có thể tạm thời ghi nhận điều trên.  Đó là những nhóm từ : Chích luân bất phản, , Phiến giáp bất hoàn,      Sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ, . 
Tuy nhiên, để cảm thụ những ý nghĩa sâu sắc của tuyên ngôn đó, chúng ta phải đặt nó trong bối cảnh lịch sử bấy giờ, tức là đặt nó trong bối cảnh , trong thời điểm, những giờ phút thiêng liêng , lúc Đại quân tuyên thệ,“thệ sư” , hừng hực máu nóng sục sôi, trên dưới một lòng, vâng mệnh tuyệt đối, bừng bừng khí thế quật khởi ngất trời.  Trong những lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu đó, nếu chúng ta quá chú trọng đến tiểu tiết thì e rằng chuyện đi vạch lá tìm sâu là một tính cách thiếu tinh tế của một người cảm thụ văn chương. 
Riêng tôi, khi đọc những  lời hiểu dụ Hán-Nôm, có sử dụng lớp từ Hán Việt trang trọng đó, thì không những nghe hơi văn sang sảng như thác đổ sóng gầm, cuồn cuộn, quyết liệt tỏ lòng mình trước ba quân, tướng sĩ mà nó còn toát lên một nét đẹp văn chương  truyền thống, óng mượt như tơ vàng giữa đất trời như một bài thơ khẩu khí đường bệ, đanh thép của một thiên tài quân sự  tầm cở thế giới, của một trang anh hùng dân tộc, Đấng Chủ Tể Nước Nam anh hùng.
(Tiếc rằng, Triều đại Vua Quang Trung ngắn ngủi, chính sự đa đoan, chưa kịp cho biên soạn bản anh hùng ca siêu quần tuyệt luân, thần tốc,chiến thắng vẻ vang quân giặc xâm lược Mãn Thanh thì đã sụp đổ.  Nhà Nguyễn Gia Long, vốn có thâm thù với Vua Quang Trung, một mặt diệt những chứng nhân (những đại thần thời Vua Quang Trung, một mặt tiêu huỷ toàn bộ những sách vở (!), cho nên, đời sau, muốn nghiên cứu, muốn hiểu biết tường tận chiến công hiển hách nầy thì trong nước không còn tài liệu bao nhiêu (Chỉ còn có tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí và một số bản chép tay và một số tài liệu nước ngoài).
Tóm lại, để kết luận, năm câu nói hiểu dụ Tướng sĩ của Vua Quang Trung  chính là năm lời tuyên bố hùng hồn, chắc nịch, chủ động quyết chiến và tự tin chiến thắng, tiên đoán như thần. Điều đó là một sự kiện lịch sử huy hoàng của Việt tộc, để Người Anh Hùng áo vải cờ đào thiên cổ lưu danh. ( Xin mời đọc mẩu “Mạn đàm” trong một dịp “Trà dư tửu hậu” giữa hai bạn văn chương ngẫu hứng sau đây):

Mạn đàm

--Nghe anh có một bài thơ cảm đề hay thơ dịch gì đó. Bài thơ chắc là hay lắm?
-- Cảm đề hay thơ dịch đều đúng.Tôi xin đọc bốn câu đầu:
Đánh cho tan nát, tơi bời,
Đen răng, dài tóc ngời ngời tục xưa.
Cho chừa!  Cho ngựa xe tan tác,
Cho bây không manh giáp thoát về.
Tôi cứ đắn đo cân nhắc lớp từ “xéo về” , “chạy về”, “trốn về” hay “thoát về”. Cuối cùng ưng ý như vậy. Từ “xéo” là khẩu ngữ, phương ngữ và cũng có nghĩa thông tục, coi khinh: giẫm bừa lên, chạy trốn, mất tăm. (Cũng được đấynhưng hạn chế vì phương ngữ nên phải bỏ). “Thoát” là “thoát thân”,  lấy hết sức bình sinh chạy trốn, mong muốn mau mau ra khỏi tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mình. Về vần, nó còn hợp vần với câu trên (tan nát) làm cho điệu thơ lấp láy, du dương. “Tan nát”: bị phá tan hoàn toàn, chỉ còn là mảnh vụn. Còn từ “tan tác”là vỡ ra,phân tán tứ phía, mỗi nơi một mảnh. “Tơi bời”: không còn ra hình thù gì nữa,do bị tấn công vô cùng mạnh mẽ, bất ngờ, dồn dập.
-- Hay lắm! Anh đã dịch rất đúng với nguyên tác. Còn phần còn lại?
-- Hơi kỳ kỳ! Góp ý coi!
Kình Nghê ,chệt khựa gian giun,
Đánh cho bây tởn  uy hùng Nước Nam.
Có mây ý cần giải thích. Kình Nghê: hai loại cá hung dử nhất ở Đại Dương, ám chỉ toàn thể Triều Đại phương Bắc, cụ thể Triều đại Nhà Mãn Thanh.
“Chệt” biến trại từ âm “chuột” có đuôi dài do người khách trú, khi mới sang Việt Nam, theo phong tục Tàu, tóc để dài như đuôi chuột. Cái đuôi sam dài đó được “kết” hay “tết” lại gọn gàng. Trong giao tiếp,ta thường nói “người khách trú có tóc đuôi chuột”; cho thuận thanh âm và nói rút thành “cắc chú đuôi chệt”, rồi là “chú chệt”. Cuối cùng biến trại thành “chệt”, chỉ những người Tàu  lưu trú tại Việt Nam kể từ thời Vua Minh Mạng trở đi. Cộng đồng Người chệt tỏa ra khắp hang cùng ngõ hẻm trên đất nước ta, với đôi quang gánh trên vai tha hương cầu thực. Khẩu ngữ dân gian đặt tên họ là “thằng cha chệt”, nói rút thành “thằng chệt” hay “chệt”.chỉ Người  Tàu gốc Minh-Mãn Thanh đó. Còn từ “khựa”, theo phiên thiết của Từ điển Trung Quốc là gồm hai từ khắm+bựa. “Khắm” là mùi hôi thối; “bựa” là mảng bám hôi hám trong răng miệng, trong vùng kín của thân thể. Nói chung, “khựa”được dùng với ý miệt thị, khinh bỉ là thối tha, dơ bẩn.
 Thuở còn học trường làng, cứ vào trung tuần trăng sáng, những bọn nhóc chúng tôi thường chơi trò chơi “ột ệt thằng chệt có đuôi”, ôm eo nhau, đồng thanh theo nhịp chân, nghiêng qua ngả lại,tiếng cười vang rân rất ấn tượng.
Gian giun: Gian giun từ láy âm đầu, có sáng tạo, kết hợp theo kiểu “lao lung”, “não nùng”, “ngại ngùng”, “vẫy vùng”,”bập bùng”,”đì đùng”,”hãi hùng””tứ tung””trẻ trung”... gian giun là dối trá, thâm độc, khó hiểu như con giun n sâu trong đất. Tởn: phương ngữ, đồng nghĩa với “kệch” là rất hãi hung, khiếp đảm không bao giờ dám tái phạm nữa .
Từ nay tôi kệch (cạch) đến già.
Tôi chẳng dám lấy ruộng  Bà nữa đâu.
Ruộng Bà vừa xấu vừa sâu,
Vừa bé hạt thóc vừa lâu đồng tiền
Ca dao
***
Một lần tôi tởn tới già,
Đừng đi nước mặn mà hà ăn chân.
Ca dao
--Rất hợp lý. Nhưng nhắc anh hãy thận trọng trong sử dụng từ “Tàu khựa” hay “chệt khựa”.
--À! Văn chương thì bay bổng,hư cấu. Nhất là bài thơ đâu đá động gì đến hiện giờ (actualité) mà  chỉ là sống lại những trang sử huy hoàng của dân tộc mình. Những yêu ghét qua hồi tưởng hiện thực lịch sử bấy giờ là những bồi hồi, xao xuyến của lòng tự hào. “Tàu khựa” hay “chệt khựa” chỉ là ám chỉ giặc xâm lược Mãn Thanh mà thôi. Còn cả một dân tộc, mình không có ý “quơ đũa cả nắm”. Bài xích, thì bài xích một chế độ có âm mưu và hành động phương hại cho tổ quốc mình, bài xích cả một dân tộc thì đó là cái quá đáng hay quá khích của người cầm bút. Như thế là không hay đâu. Ce qu’ est de  trop, c’est mauvais.( Sự việc gì quá đáng thì không hay).
--Vậy anh nên sửa lại như thế nào, cho thanh hơn đi! Hình như có nhiều người dị ứng khi nghe từ “khựa”đó lắm.
--Thôi thì bỏ hế vậy!  Sửa lại hai câu cuối như vầy, bạn nghe thử, xem có được không:
Giặc Ngô lề thói gian tham,
Sử ghi, bây tởn Nước Nam anh hùng.
Tôi chọn giặc Ngô chỉ giặc Thanh,vì hai lẽ: một là Nguyễn Trãi đã sử dụng “Bình Ngô đại cáo”; hai là:
Chẳng phải  Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lóc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt, năm ba phẩm,
Vãi mọp sau lưng sáu bảy bà.
Nhà sư, Hồ Xuân Hương
“Lề”: Thói quen đã thành nếp, thành lệ, khó thay đổi, như tục ngữ “Đất có lề, quê có thói”.
“Thói”: cách sống,hoạt động không tốt,lâu ngày thành quen thuộc,gắn bó,khó lòng bỏ được.như “thói đời”, “thói du côn”, “thói hư tật xấu”, “thói quen”, “thói thường”…“Lề thói” tôi sử dụng ở đây không những nó là định ngữ cho “GiặcNgô”, mà nó còn hợp vần với”thoát về” ở câu trên: “Cho bây không manh giáp thoát về” .  “về” và “lề” vần với nhau.
--Ô! Đáng mười điểm! Không chê vào đâu được! Hãy cẩn thận anh à! Mình già rồi! Tôi đi pha thêm một bình trà Ô Long nữa nhé! Anh ráp lại bài thơ đó xem!
-- Tóm lại, để kết luận,năm câu nói hiểu dụ Tướng sĩ của Vua Quang Trung  chính là năm lời tuyên bố hùng hồn, chắc nịch, chủ động quyết chiến và tự tin chiến thắng, tiên đoán như thần, có thể diễn ý như sau:
Đánh cho tan nát,tơi bời,
Đen răng, dài tóc ngời ngời tục xưa.
Cho chừa!  Cho ngựa xe tan tác!
Cho bây không manh giáp, thoát về.
Giặc Ngô lề thói gian tham,
Sử ghi, cho tởn Nước Nam anh hùng.
-- Ô! Rất đặc sắc như hương vị trà Ô Long! Đúng không?
--Có đặc sắc gì đâu! Mạn đàm trà dư tửu hậu, tán gẫu(*) thôi mà!
------------

(*) tán gẫu: chuyện không có chủ đích, chỉ cốt cho vui và đưa duyên trong thì giờ gặp nhau.

Ngân Triều