Thú vui nhiếp ảnh thơ văn
Sẻ chia cùng bạn tri âm khắp miền.

đào anh dũng




27 tháng 4, 2015

Có còn nhớ không - Thơ Đào Anh Dũng và cảm tác của bạn





BẾN MƠ CUỐI ĐỜI /công chúa nhỏ

Cảm tác từ bài thơ Có Còn Nhớ Không
            của Đào Anh Dũng
                   ***
Cali đất ấm ngọt ngào
Việt Nam
cố quôc làm sao cắt rời?
Thương về cảnh cũ bồi hồi
Bên nào tình nặng để thôi thúc sầu?
Kim châm muối xát lòng đau
Sao tim cứ mãi dạt dào hương yêu?
Cho người xa xứ quạnh hiu
Khói tương tư thảo dặt dìu tình thơ
Đẹp nhất là phút đợi chờ
Tương phùng hội ngộ, bến mơ cuối đời

          Saigon  29/4/2015
                   CCN

 XÓT XA / Nguyễn Cang

 (Cảm đề bài thơ "Có còn nhớ không" của Đào Anh Dũng)

Cali nắng cháy trưa hè
Thương về quê cũ tiếng ve ngậm ngùi
Chiều trông mây trắng bay xuôi
Gởi bao tâm sự một trời nhớ thương
Em đi áo mỏng dặm trường
Ngập ngừng chân bước có vương vấn sầu?
Mặc đời trôi nổi về đâu
Lòng anh vẫn giữ tình đầu cố nhân!

 Nguyễn Cang

23 tháng 4, 2015

Hôm qua, ngày nay




     
đàoanhdũng
  
      1.

     Tôi - Lisa - là đứa con duy nhất của cha mẹ tôi. Cha tôi là một sĩ quan Không Quân, nên gia đình chúng tôi đôi ba năm lại di chuyển một lần đến một căn cứ khác. Quê nội tôi ở Texas, bên ngoại gốc California. Cha tôi tử trận ở Việt Nam lúc tôi vừa tròn 16 tuổi. Hai năm sau mẹ tôi tái giá theo dượng ghẻ tôi về Nam California sinh sống, tôi một mình ở lại Ohio, theo học trường Kent State nhờ vào học bổng Basic Grants (1), tiền vay nhà trường và đầu lương việc làm bán thời gian ở tiệm cắt tóc Fantastic Clips gần campus (2). Lúc ấy tôi thấy mình như một đứa mồ côi, vô gia đình, chỉ biết có bạn bè cùng lớp và chung việc làm mà thôi. Tôi gặp John lần đầu tiên trong một cuộc biểu tình ở campus. Tuy cùng màu da chủng tộc, chúng tôi có nhiều điều khác nhau, nhất là về chính kiến: John chống chiến tranh Việt Nam, tôi ủng hộ. Vậy mà chúng tôi đã thân nhau, “sống thử” với nhau được gần ba năm. Đến khoảng giữa khóa học mùa Xuân 1975, chúng tôi chia tay. Khi ấy tôi học gần xong năm thứ ba chương trình cử nhân Anh Văn, môn phụ là Tâm Lý Học. Tôi ước mơ trở thành một người viết văn chuyên nghiệp.

Bạn bè cùng lớp, và ngay cả John nữa, gọi tôi là một “hội chứng Việt Nam” vì tôi vẫn chưa nguôi ngoai về cái chết của cha tôi.  Lúc ấy, ai cũng biết Mỹ đã tuần tự rút quân về nên chiến tranh sắp kết thúc. Hàng ngày, trên báo chí và truyền thanh, truyền hình vẫn còn tin tức chiến sự Việt Nam. Trong giới bạn bè của tôi ai cũng nghe qua rồi bỏ ngoài tai, xem như một việc đã an bài, một trang sử đã lật qua. Họ luôn nhìn về phía trước - looking forward - như đa số người Mỹ chúng tôi. Còn tôi thì không, tôi ưa tranh luận về chiến tranh Việt Nam, không phải vì tôi thương mến cái xứ xa xôi, tận miền Viễn Đông mà tôi không có mảy may một liên hệ nào về tình cảm hay huyết thống, hay gì gì chăng nữa cả. Tôi muốn tìm một giải đáp cho chính tôi. Chẳng lẽ cái chết của cha tôi cuốn theo sự đổ vỡ của gia đình chúng tôi cũng sẽ trở thành vô tích sự hay sao? Cha tôi, cũng như các đồng đội của ông tham chiến ở Việt Nam theo lời kêu gọi của tổ quốc, đâu phải là những kẻ “sát nhân” như báo chí mô tả! Khi trở về, thân thể lành lặn, hay què quặt, hay nằm trong chiếc hòm kẽm như cha tôi, họ bị chính đồng bào mình ruồng bỏ, xa lánh. Tại sao? Ôi, biết bao câu hỏi mà tôi không tìm được câu trả lời. Tôi đâm ra lầm lì với tâm tư nặng trĩu của mình. Do đó, bạn bè chán nản, dần dà xa lánh tôi.
Và cũng vì thế, khi John bỏ đi, tôi hụt hẫng, buồn không thể tả. Tôi điện thoại cho hai người đàn bà thân nhất của mình là mẹ và dì Mary.
Mẹ tôi đã có cuộc sống riêng, bà rất bận rộn với công việc ở sở làm và gia đình mới của bà. Biết vậy nên tôi không ngạc nhiên khi nghe bà cho tôi những lời khuyên vô vị, mà câu cuối cùng là: “Grow up, be a big girl!” (3).
Dì Mary là bạn thân của cha mẹ tôi. Chồng của dì - dượng Peter - và cha tôi ở cùng đơn vị,  đồng thời phục vụ tại Việt Nam. Khi tôi còn bé, hai gia đình ở sát vách trong cư xá sĩ quan Không quân Lakeland, tiểu bang Texas. Brian con dì cũng rất thân với tôi. Đúng là “đồng bệnh tương lân” vì hôm ấy dì và tôi nói chuyện đến hơn hai tiếng đồng hồ trên điện thoại. Dì cũng đang gặp khó khăn trong gia đình vì dượng Peter độ này tính tình thất thường, đêm nằm mộng hay la hét, thức dậy ngồi trầm ngâm một mình hàng giờ, gắt gỏng với vợ con nên không ai chịu nổi nữa. Lại một “hội chứng Việt Nam”? Trong lúc trò chuyện, dì thoáng nói đến hai chữ “ly dị”. Dì khuyên tôi nên nghỉ học, nghỉ làm vài tháng, xuống miền Nam ở chơi với gia đình dì, thay đổi không khí, hy vọng tôi sẽ bớt sầu. Tôi đoán dì muốn có “bầu bạn” hầu nguôi ngoai chuyện buồn của gia đình dì.

2.

 Nghe lời dì Mary, cuối tháng sáu năm ấy tôi đi xe đò Greyhound xuống Destin, một thành phố nhỏ nằm sát vịnh Mễ Tây Cơ, cạnh căn cứ Không Quân Eglin, tiểu bang Florida. Nơi đó, tôi gặp hắn.
Tôi đến Destin trong lúc gia đình dì Mary đang bận rộn làm việc thiện nguyện ở trại tị nạn Việt Nam do căn cứ Eglin bảo trợ. Tôi lăn vào phụ giúp. Tôi ngạc nhiên khi thấy, trái với lời dì Mary nói lúc trước, dượng Peter rất vui vẻ và cởi mở với gia đình. Dì Mary trông cũng không kém hạnh phúc. Khi có giây phút riêng tư với tôi dì cho biết  dượng  đã thay đổi, không gắt gỏng nữa mà vui vẻ ra, từ khi có công việc giúp người tị nạn. Mệt thì mệt thật, bận rộn thì khỏi nói, nhưng tinh thần thật thoải mái, gia đình hạnh phúc. Phải chăng khi thấy cái khổ của kẻ khác mình mới thấy còn may mắn hơn mà biết yêu quí những gì mình đang có? Tôi nghĩ như thế về gia đình dì Mary, tôi lại mong điều nầy cho chính tôi.
Cùng với mọi người, tôi làm việc tại các lều Hành chánh, phụ các chú lính Không quân phân phát các món cần thiết cho người tị nạn hay phục dịch tại các lều Ẩm thực, Y tế . . . Chúng tôi cũng giúp các gia đình tị nạn mới đến trại, hướng dẫn họ đi làm các thủ tục định cư, khám sức khỏe, lãnh quần áo . . . Trở ngại ngôn ngữ là một khó khăn cho đôi bên. Chúng tôi hy vọng có một gia đình người Mỹ như chúng tôi gần gũi giúp đỡ, người tị nạn sẽ bớt cô đơn và cảm thấy mình được tiếp nhận với một vòng tay mở rộng.

Hôm ấy, gia đình dì Mary nhận công tác tiếp đón một đại gia đình người tị nạn gồm 19 người. Nói bốn gia đình thì đúng hơn vì đứng đầu là cha mẹ, sau đó là năm người con mà ba người đã có gia đình, con cái, và một người cháu trai.
Người cháu trai đó là hắn. So với đa số người Việt tôi gặp trong mấy tuần qua thì hắn khá cao, chừng năm feet (4) bảy, tóc đen dài phủ ót, nước da sạm nắng, mặc một bộ đồ rộng thùng thình, đi đứng lúng túng. Nhưng bộ vó đó không làm lu mờ được cặp mắt Á Đông sáng như sao đêm của hắn. Thật ra, tôi theo dì Mary làm phận sự, không chú ý đến hắn cho lắm, chỉ có cảm tưởng hắn không thích tôi, hay là không thích người Mỹ, thế thôi. Trong gia đình ông bà Nguyễn, hắn là người nói tiếng Anh khá nhất, tuy không lưu loát, hắn vẫn đương nhiên trở thành người thông dịch viên và chúng tôi không phải nhờ ai khác làm nhiệm vụ này.
Sau khi mọi người về đến lều, dì Mary tự giới thiệu tên mình, Brian và Ted, hai người con của dì, và người cháu gái là tôi, Lisa. Xong dì nhờ hắn giới thiệu gia đình ông bà Nguyễn, giúp chúng tôi phát âm tên từng người cho đúng. Hắn vừa nói tên hắn là Long, Brian bỗng có ý khôi hài, cười và nói: “Dài cái gì?”.  Thấy hắn mím môi, mặt gằm xuống, tôi biết hắn giận bèn thúc cùi chỏ vào hông Brian. Không hẹn, Brian và tôi nói cùng một lượt: “Xin lỗi!”. Hắn nhếch miệng cười khó hiểu và tiếp tục giới thiệu tên mọi người, nhấn mạnh đến ý nghĩa của mỗi tên, và cách phát âm. Thú thật, lúc ấy tôi không nhớ tên ai cả, chỉ nhớ tên hắn là Trần Hoàng Long, có nghĩa là con rồng của nhà vua. Tôi nhớ vì câu nói đùa vô ý thức của Brian.

Kể từ hôm ấy, công việc của chúng tôi trôi chảy, không có vấn đề gì ngoài việc gia đình bác Nguyễn phải cho người đi tìm hắn mỗi khi cần người thông dịch, vì hắn luôn vắng nhà. Một hôm, tôi đề nghị mang đồ nghề đến cắt tóc hộ cho gia đình bác Nguyễn. Khi biết tôi cũng hành nghề cắt tóc, các bạn phái nữ của tôi rất vui vẻ hưởng ứng vì hơn hai tháng nay họ đâu có cơ hội săn sóc đến tóc tai. Tôi mất trọn buổi sáng mới cắt tóc xong cho cả nhà, trừ hắn.
Khi ấy tôi mới tò mò hỏi chị Deb (tên chị là Đẹp, có nghĩa the beautiful nhưng chúng tôi gọi trại ra là Deb) con bác Nguyễn về hắn. Chị tiết lộ hắn có lần nói sẽ không cắt tóc cho đến khi gặp lại gia đình và hắn thường lánh mọi người, ngồi một mình ở góc trại. Hỏi thêm, tiếng được tiếng mất, tôi loáng thoáng hiểu ra hắn là em của  người con rể của bác Nguyễn. Gia đình cha mẹ hắn và gia đình bác Nguyễn cùng hùn tiền mua một chiếc tàu nhỏ để vượt thoát. Chẳng may trong cuộc hỗn loạn lúc Sài Gòn thất thủ, gia đình hắn bị kẹt lại. Nghe thế, càng thêm tò mò, tôi nhờ chị Deb chỉ cho tôi cái ốc đảo của hắn để tôi tự đi tìm hắn.

Từ xa tôi thấy hắn ngồi một mình trong bóng mát, ở bìa rừng thông, cạnh sân bóng chuyền đang vắng bóng cầu thủ vì khi ấy trời còn nắng gắt. Hắn cắm cúi viết vào quyển vở để trên đùi, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên, mắt nhìn xa xăm.
Trưa hôm ấy, bầu trời Florida trong xanh, thật đẹp, nhưng không khí rất oi bức. Trại tị nạn đông đúc, nơi nào cũng người và người, đi đâu tôi cũng thấy xếp hàng, nhất là các lều ẩm thực, lúc nào cũng có kẻ đứng chờ lấy thức ăn. Đông đúc nhưng không ồn ào. Họ không có tâm tư vui nhộn trong những ngày tan tác này. Họ vừa bỏ quê hương đi tìm lẽ sống mà!
Làm việc ở trại tị nạn mấy tuần nay, dầu vậy, tôi để ý thấy phần đông người tị nạn cũng muốn tìm hiểu việc nầy, hỏi thăm chuyện nọ, nhất là đời sống ở ngoài trại. Qua kinh nghiệm tiếp cận với họ, tôi thấy họ có trạng thái khá nhạy bén trong một số sinh hoạt. Cách nay hơn hai tuần tôi thấy trước lều nhà nguyện có một đám đông tụ tập sau Thánh Lễ. Thì ra hôm ấy linh mục đến dâng Thánh Lễ có mang theo một số chuỗi Mân Côi để tặng cho  giáo dân. Hôm kia, dượng Peter kể cho dì Mary và tôi nghe chuyện người ta khám phá ra một gia đình tị nạn để dành cả thùng táo trong lều. Dượng Peter nói có gia đình còn để dành cả giấy đi cầu nữa. Tôi lắc đầu, không hiểu, vì các thứ ấy có giá trị gì đâu mà họ cất giữ. Muốn ăn táo thì cứ ra lều ẩm thực, tội gì phải giữ riêng, vài ngày chúng hư lại phải vất đi. Dì Mary giải thích: “Cháu nghĩ lại xem, họ còn gì nữa đâu! Phần đông ra đi với hai bàn tay trắng. Chúng ta giúp họ định cư, sống ổn định tại đất nước tự do của chúng ta, nhưng thử nghĩ sau khi chính phủ Mỹ đã bỏ rơi chính đồng minh của mình, thì họ còn tin ai được nữa. Nếu dì là họ, chắc chắn dì sẽ để dành tất cả những gì dì có trong tay. Bản năng sinh tồn của con người là vậy, cháu à!”
Nghe dì nói, tôi thấy mình cần học hỏi thêm nhiều điều từ những người tị nạn này, nhất là hắn, vì đối với tôi hắn là một con người đầy bí ẩn, sống cách biệt, không bon chen để sống còn như đám người đông đúc đang sắp hàng ngoài kia.
 Ánh mắt hắn vẫn còn nhìn xa xăm khi tôi đến gần. Tiếng chào “Hi!” của tôi làm hắn giật mình. Hắn khép vội quyển vở, đứng dậy, ngập ngừng chào tôi:
Hi, chào cô Lisa! Nhà cần tôi thông dịch phải không cô? Tôi về ngay đây!”
Tôi nhìn hắn, mỉm cười, mong hắn được tự nhiên hơn.
“Hôm nay tôi đã cắt tóc xong cho mọi người, trừ anh đó!”
Ác thay, câu nói của tôi làm cho hắn thêm ngượng ngập. Hắn lẩm bẩm:
“Cám ơn cô, tôi … tôi …”
Biết mình đã lỡ lời (Chị Deb đã tiết lộ với tôi hắn nói sẽ không cắt tóc cho đến khi gặp lại gia đình mà!) tôi vội ngắt lời hắn:
“Thật ra, tôi muốn gặp anh, nói chuyện chơi với anh để quen biết anh nhiều hơn. Mấy ngày qua mình chỉ làm việc với nhau thôi, chứ chưa bao giờ có dịp gặp nhau riêng…”
Thấy hắn còn đứng tần ngần, có vẻ khó chịu vì tôi đến quấy rầy thế giới riêng tư của hắn, tôi ngồi xuống bãi cỏ, nói bâng quơ:
“Trời hôm nay đẹp quá hả Long?”
Hắn chần chừ trong giây lát, rồi ngồi xuống bên tôi, giữ một khoảng cách. Đôi mắt hắn thật buồn, vẫn nhìn xa xăm. Hắn nói:
“Còn tùy … tùy theo tâm trạng của mỗi người.”
Cánh cửa bỗng hé mở. Tôi nhìn hắn, ước ao nắm bắt lấy tâm tư nằm dưới mái tóc đen bồng bềnh đó, giải những bí ẩn của đôi mắt kỳ bí ấy. Như có linh tính biết mình đang bị nhìn trộm, hắn quay lại, bắt gặp ánh mắt của tôi. Đến phiên tôi lúng túng, vội nhìn xuống quyển vở trong tay hắn, nói khỏa lấp:
“Anh đang biên chép gì đấy?”
“Tôi đang tự học Anh Văn.”
“Sao anh không đến lớp?”
“Họ còn học ABC, đàm thoại căn bản. Tôi thấy mất thời giờ.”
 Hắn bỗng mỉm cười, giọng chua chát:
“Nói thật với cô, chúng tôi bây giờ mất tất cả rồi. Chỉ còn quá khứ và thời gian. Quá nhiều thời gian trong lúc chờ ngày định cư. Thế mà tôi sợ mất thì giờ! Buồn cười quá hả cô?”
Cánh cửa lại mở thêm một chút. Tôi chộp lấy cơ hội:
“Tôi có thể giúp anh học Anh Văn.”
Hắn cầm quyển vở, giọng hững hờ:
“Cám ơn Lisa. Cô có thể giúp tôi luyện giọng, đàm thoại thông thường … chứ việc tôi đang làm … tôi đang chép lại quá khứ  vì … vì tôi … tôi sợ sẽ mất luôn quá khứ …  Tôi viết bằng tiếng Anh để luôn thể học Anh Văn. Nhưng tôi gặp khó khăn trong việc chuyển ngữ tư tưởng của mình. Chắc cô cũng không giúp gì được đâu.”
Tuy nói thế hắn vẫn lịch sự trao quyển vở cho tôi. Tôi lật trang, đọc sơ qua trang đầu. Đúng như lời hắn nói, hắn đang viết “hồi ký” bằng tiếng Anh. Trong câu văn có nhiều từ ngữ hắn viết bằng tiếng Việt. Tôi nhận ra hắn cần nhất là một quyển tự điển. Nhưng tìm đâu ra một quyển tự điển Việt Anh và Anh Việt trong lúc ấy? Tôi hứa đại với hắn:
Tôi sẽ giúp anh có một quyển tự điển. Ngoài ra, nếu anh không ngại, tôi có thể giúp anh trao chuốt câu văn theo lối diễn dịch hiện thời. Anh nghĩ sao?
Lần đầu tiên tôi thấy gương mặt hắn rạng rỡ. Cặp mắt hắn sáng lên, giọng hắn chân thật:
Cám ơn Lisa, được vậy thật tốt cho tôi ... Thời giờ nhàn rỗi ở đây, nếu không có việc này chắc tôi điên mất!
Tôi quyết định không tò mò thêm nữa. Thế nào tôi cũng đọc được tâm tư của hắn bằng chính câu viết của hắn mà! Tôi đổi đề tài, chuyện trò với hắn về thời tiết, những vui buồn đời sinh viên của tôi, hỏi hắn về xứ Việt Nam suốt buổi trưa hôm ấy.
Ngay hôm ấy, trong lúc dùng cơm chiều tôi kể cho cả nhà nghe về người bạn Việt Nam mới của tôi. Thật bất ngờ,  việc tôi thấy khó, quá ra rất dễ. Ngày hôm sau dượng Peter điện thoại cho căn cứ Fort Bliss ở El Paso, tiểu bang Texas, nơi có một trung tâm dạy Việt Ngữ trong thời kỳ chiến tranh. Họ lập tức gởi cho trại tị nạn Eglin một thùng tự điển. Lẽ dỉ nhiên tôi được một quyển.

         3.

Tôi trở thành bạn thân của hắn - tức Long - nhờ quyển tự điển ấy. Tuy nhiên, nó chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho tình bạn của chúng tôi mà thôi. Nguyên nhân sâu xa kéo chúng tôi gần lại với nhau chính là cái người ta gọi “hội chứng Việt Nam.” Long là người Việt Nam đầu tiên nói “rất tiếc” với tôi khi anh biết cha tôi tử trận ở Việt Nam, và anh cám ơn những hy sinh mẹ tôi và tôi đã trải qua. Trong khi đó, bè bạn người Mỹ của tôi, chưa một ai nói câu “rất tiếc” với tôi. Sau khi biết Long hơn, hiểu anh qua những lần trò chuyện, nhiều khi tranh luận tay đôi về cuộc chiến, nghiền ngẫm những trang giấy anh viết, kể lại quá khứ đau buồn của dân tộc anh và của riêng anh, tôi thiết tha mang hết khả năng của mình cùng kiến thức trường học giúp anh vượt qua cơn khó khăn. Vâng, lúc ấy Long đang trải qua một khủng hoảng tâm lý trầm trọng. Theo tôi, đó là hậu quả của một mặc cảm tự cho mình là đê hèn, phản bội, cộng với nỗi đau buồn vì bao mất mát và tuyệt vọng anh không có lối thoát.
Long sanh ra trong một gia đình trung lưu. Ba anh là một giáo chức, mẹ anh có một cửa hàng buôn bán tạp hóa ở một tỉnh lẻ cách Sài Gòn độ 70 dặm về hướng đông. Họ có thừa khả năng cho anh tiếp tục lên đại học ở thủ đô sau khi anh xong trung học. Nơi đây anh quen với Tuyết, một cô bạn cùng trường, rồi hai người đi đến tình yêu, cuộc tình đầu đời của Long. Hai người cùng hứa hẹn sẽ đi đến hôn nhân sau khi anh xong đại học và có việc làm. Khi Long đang học năm thứ hai, chiến sự leo thang đến tột đỉnh  với những giao tranh khốc liệt vào mùa hè anh gọi là “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Nhìn bè bạn trong quân ngũ lần lượt ngã gục ở chiến trường trong lúc ở hậu phương có những biến động chính trị, một mặt Long chán nản học hành, mặt khác anh lăn vào những hoạt động chính trị của các đoàn thể sinh viên. Với nhiệt huyết của một sinh viên trẻ tuổi, anh tranh đấu, hy vọng miền Nam có được một chính quyền mới, trong sạch mà hậu thuẩn cho quân đội chiến thắng cộng sản. Năm ấy Long thi rớt. Không còn đủ điều kiện để được hoãn dịch tiếp tục học vấn, anh vào quân đội.
Sau chín tháng quân trường Long mang lon chuẩn úy, đóng ở một quận lỵ miền Tây Nam phần, cách Sài Gòn hơn 100 dặm. Long tâm sự với tôi rằng, từ khi khoác chiếc áo lính, anh đã chuẩn bị tinh thần để chấp nhận việc phải xa Tuyết, không phải trong một thời gian, mà mãi mãi. Sống đời quân ngủ, rày đây mai đó, Long không thể lập gia đình. Chiến tranh dai dẳng, anh không thấy ngày nó chấm dứt. Rủi ro anh tử trận bỏ lại vợ con khổ sở, nheo nhóc, đó là điều anh không bao giờ muốn. Hơn nữa, Long không đủ điều kiện tài chánh để lập gia đình – bản thân anh, anh lo không xong nói chi đến trách nhiệm của một người chủ gia đình. Việc này tôi không đồng ý với Long vì tôi nghĩ Tuyết cũng có thể đi làm để phụ với anh nuôi sống gia đình chứ. Long mỉm cười, cay đắng bảo rằng có những sự việc tôi không bao giờ hiểu về Việt Nam, cũng như anh không hiểu sao người Mỹ một sớm một chiều đã bỏ mất lý tưởng bảo vệ tự do, dân chủ của mình.
Xa mặt cách lòng. Gần hai năm sau khi Long nhập ngũ, Tuyết nghe lời cha mẹ lập gia đình với một người bạn cùng lớp vừa đỗ bằng chuyên môn, nếu bị động viên có thể được ở hậu cứ, hoặc may khỏi ra chiến trường. Long viết rằng anh thật tình mừng cho Tuyết và không trách chị vì chính anh muốn như thế nên có thái độ hờ hững trong những lần chị đến thăm anh. Thật ra, trong lòng anh rất đau khổ. Ngày cưới của chị, anh lấy hai ngày phép trở về Sài Gòn, không gặp chị mà chỉ từ xa nhìn chị bước lên xe hoa. Từ đó, Long không trở lại thủ đô, anh miệt mài với nhiệm vụ của mình ở quận lỵ xa xôi cho đến cuối tháng Tư anh mà gọi là Tháng Tư Đen của miền Nam tự do.
 Chiến cuộc Việt Nam ngày càng bi thảm, khởi đầu là những cuộc di tản “chiến thuật” khỏi các tỉnh cực Bắc đến các thành phố then chốt vùng cao nguyên và dọc duyên hải. Long được lịnh tăng cường phòng thủ, dự trữ đạn dược, nước uống, thức ăn vì vị tướng tư lệnh vùng IV chiến thuật dự liệu miền Tây Nam phần sẽ là tiền đồn cuối cùng chống cộng sản.
Trong thời gian ấy, Long cùng các đồng đội rất hoang mang qua tin tức các cuộc triệt thoái quân đội mà anh không thấy có giá trị “chiến thuật” nào, song song với việc Quốc hội Hoa kỳ biểu quyết cắt viện trợ. Phải chăng đây là giây phút hấp hối của miền Nam tự do? Tuy nhiên, theo lời Long kể với tôi, đồng đội của anh ai cũng đồng lòng quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, vì nếu cộng sản thắng thì họ cũng sẽ mất hết mà thôi. Họ hy vọng rằng sự chiến đấu dũng cảm của họ có thể giúp tạo một giải pháp chính trị để mảnh đất cuối cùng của miền Nam này không rơi vào tay cộng sản.
Định mệnh nghiệt ngã. Vào những ngày căng thẳng đó, Long nhận được điện tín cha anh cho hay mẹ anh bệnh nặng phải đưa về Sài Gòn điều trị, anh nên xin phép về thăm bà ngay, kẻo không kịp. Thương mẹ, Long muốn về ngay để bà còn thấy mặt anh trong giây phút cuối đời, nhưng anh không thể bỏ đồng đội của anh vào giai đoạn quyết tử chiến đó. Hơn nữa, toàn quốc đang trong tình trạng thiết quân luật, quân cán chính không ai được phép rời đơn vị. Vài ngày sau, Long nhận thêm điện tín nhà báo tin bệnh trạng của mẹ anh đã đến hồi nguy kịch. Sáng hôm sau, trong lúc uống cà phê trước quận đường, Long bỗng có quyết định bất ngờ về ngay thăm mẹ. Anh rời đồng đội của mình, không một lời từ giã, không hành lý, không một giấy phép trong tay. Quyết định này là một trong những nỗi đau dằn vặt anh từ ngày anh rời quê hương.
Về đến thủ đô, Long mới biết tình hình nước nhà đã quá bi đát. Những chuyến di tản bằng không vận của người Mỹ đã ngưng vì phi trường Tân Sơn Nhất vừa bị dội bom. Người dân nhốn nháo vì những xáo trộn chính trị và những cuộc triệt thoái như nước vỡ bờ. Sài Gòn hỗn loạn, gần như vô chủ.
Long đến nhà người cô để hỏi thăm gia đình thì gặp cả nhà đang lánh nạn ở đó. Khi ấy, anh mới hay mẹ anh không có bệnh tật chi cả, cha mẹ anh đã hùn tiền với gia đình thông gia là bác Nguyễn cùng gia đình người cô của anh mua một chiếc tàu nhỏ để vượt thoát nếu không may Sài Gòn thất thủ. Mẹ anh ôm anh, khóc nức nở, trong lúc cả nhà như trút được một mối lo vì bà nói sẽ không đi đâu nếu anh không về kịp. Gia đình mình cùng sống, cùng chết, bà bảo vậy. Ngay tối hôm ấy, gia đình Long di chuyển đến bến Vân Đồn trong lúc bầu trời Sài Gòn rền tiếng máy bay trực thăng đang thực hiện cuộc di tản từ tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Đến điểm hẹn mới hay tàu đã bị cướp. Gia đình bác Nguyễn, nhờ quen biết giới hàng hải, tìm được mối tàu khác. Cha Long dốc hết số vàng còn lại mua chỗ cho Long ra đi cùng với gia đình người anh là con rể của bác Nguyễn. Ông bà cùng ba người con khác hy sinh ở lại vì họ biết hai anh em Long là sĩ quan sẽ khó thoát tù cộng sản.

Bỏ xứ ra đi trong một tình huống quá khắc nghiệt, Long mang mặc cảm của một kẻ phản bội quê hương và gia đình. Anh đã đào ngủ, phản bội chính đồng đội của mình, chạy bỏ trước quân địch. Và anh đang sống sót qua sự hy sinh của gia đình. Từ những mặc cảm ấy, tâm trí Long phác họa một tương lai đen tối. Anh không thấy ngày trở lại cố hương. Anh mù mờ lý luận rằng xưa nay chưa có quốc gia nào thoát được ách cộng sản sau khi họ nắm chính quyền, bế quan tỏa cảng. Có rất ít người vượt thoát được bức tường sắt. Điển hình là Đông Đức và các xứ Đông Âu. Long bảo với tôi trong trại tị nạn đã có nhiều người bàn đến ngày hồi hương dành lại tự do cho đất nước, nhưng anh chua chát nhận xét: “Khi có lòng dân, có người giúp khí giới, thì không đồng lòng đánh giặc. Bây giờ, không một tấc sắt trong tay, lấy gì mà đánh! Viển vông!”.
Đọc những trang “hồi ký” của Long, tôi cố gắng giải thích, gỡ rối cho anh nhưng không có kết quả. Phải chi Long cứ đổ lỗi cho người Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam khi không còn thấy quyền lợi của mình bị đe dọa ở Đông Nam Á. Phải chi anh tạm quên đi dĩ vãng đau buồn, ít nhất có một chút hy vọng để sống còn vượt cơn giao động tâm lý nhất thời ấy, rồi từ từ anh tìm ra giải đáp cho chính mình. Trái lại anh tự đày đọa, đổ lỗi cho chính mình, cho thế hệ của mình, những kẻ “có nước mà không biết giữ”. Bằng chứng là mái tóc không cắt của Long. Đó không phải để nuôi hy vọng ngày gặp lại cha mẹ, anh chị em, mà là một nhắc nhở đến lỗi lầm của mình. Những trang “hồi ký” của Long thật ra là những lời thú tội mà tôi biết chỉ có anh mới có thể tự tha thứ cho mình mà thôi.


       4.

Chuyện của Long thì tôi “sáng” như vậy, còn cái “hội chứng Việt Nam” của tôi thì sao? Thắm thoát đã hơn một tháng từ ngày tôi quen Long, gia đình bác Nguyễn đã được một nhà thờ nhận bảo trợ về định cư tại thành phố Minneapolis thuộc tiểu bang Minnesota. Hôm chúa nhật, hai ngày trước khi gia đình bác Nguyễn rời trại tị nạn, chúng tôi tổ chức một buổi tiệc trà chia tay ngay tại căn lều của gia đình bác. Như mọi cuộc giã từ trong cuộc đời, mặc dầu quen biết nhau chỉ quá một tháng, chúng tôi cũng có những giọt nước mắt, những lời chúc mừng, trao đổi địa chỉ, hẹn ngày tái ngộ rất chân tình.
Đêm hôm ấy, tôi trằn trọc ngủ không được. Tôi không quên được ánh mắt xa xăm của Long, tôi nhớ hoài mái tóc đen bồng bềnh dài phủ ót, giọng nói tiếng Anh còn ngập ngừng của anh. Tất cả những chuyện về Long cứ ám ảnh tôi. Phải chăng tôi đã bị cú sét ái tình? Tôi không rõ, nhưng lòng buồn vô hạn, biết anh sẽ khổ sở nhiều khi chưa giải tỏa được nỗi u uẩn của mình.
Tôi thay đồ mát, định đi bộ vài vòng trên bải biển gần nhà cho khuây khỏa. Tuy nhiên, khi thấy dượng Peter còn đọc sách ở phòng khách, tôi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với dượng, xin phép được quấy rầy dượng vì tôi có một chuyện rất quan trọng cần bàn ngay với dượng.
Tôi kể cho dượng Peter nghe tình cảnh của Long, những cố gắng của tôi để giúp anh có một cuộc sống bình thường, hầu xây dựng một cuộc đời mới trên mảnh đất có nhiều cơ hội này. Lạ thay, càng thả lỏng tâm tư mình tôi càng nhận ra những đề nghị của tôi cho những vấn đề của Long cũng là giải đáp cho chính mình. Cha tôi, dượng Peter và hàng ngàn chiến binh Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam không phải là những kẻ sát nhân. Họ chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của tổ quốc mà thôi. Vì thế, sự hy sinh của họ không vô ích. Một ngày nào đó, đồng bào của tôi sẽ nhận ra điều này, đương nhiên danh dự của các chiến sĩ tham chiến ở Việt Nam sẽ được phục hồi. Làm người không ai có thể dửng dưng trước thảm cảnh chiến tranh. Chẳng qua lòng nhân ái của đồng bào tôi đang bị giới truyền thông thiên tả khai thác theo chiều hướng chính trị mà thôi. Tôi cũng hiểu ra rằng những va chạm quyền lợi giữa các quốc gia hay các quyền lực trên thế giới là việc không thể tránh. Điều quan trọng là chúng ta có thái quá trong công cuộc bảo vệ quyền lợi quốc gia chúng ta mà chà đạp quyền lợi của quốc gia khác hay không. Riêng tôi, nếu nắm được, học được luân lý này tôi có thể tạm quên quá khứ để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn thế hệ cha mẹ của tôi. Phải chăng đó là điều cha mẹ tôi ước mơ khi sanh tôi ra đời? Tôi mong sao mình có dịp gặp lại Long để nói với anh những cảm nghĩ này.
Sáng hôm sau, dùng điểm tâm xong Brian và Ted rủ tôi ra biển, nhưng dì Mary bảo có chuyện nhờ tôi giúp nên tôi ở lại nhà cùng dì. Lát sau, tôi nghe có tiếng xe đậu trước nhà, rồi tiếng mở cửa. Bất ngờ, tôi thấy Long bước vào nhà tay cầm một gói bằng giấy báo, phía sau là dượng Peter. Dượng cười thật tươi, giải thích rằng hôm nay trời đẹp nên dượng mời Long đến chơi cho biết nhà trước khi đi định cư ở miền Bắc, và dượng nhờ dì cháu chúng tôi tiếp đãi Long vì dượng phải trở lại căn cứ để làm việc.
Trò chuyện được chừng năm phút, dì Mary bảo rằng dì có chuyện cần ra phố và đề nghị tôi đưa Long ra bải biển gần nhà cho thoải mái. Tôi đoan chắc trong lòng rằng đêm qua dượng Peter đã kể cho dì nghe câu chuyện của Long và tôi, và sáng nay hai ông bà cố tình tạo cơ hội cho chúng tôi gặp gỡ nhau một lần nữa trước khi chia tay.
Sáng thứ hai ấy bãi biển Destin thật vắng, có lẽ dân nghỉ hè còn đang hải hùng về phim con cá mập Jaws đang được trình chiếu tại các rạp chiếu bóng địa phương. Trời trong xanh, ánh nắng vàng nhạt, gió thổi nhè nhẹ đong đưa các cành phi lao trồng trên đồi cát dọc bãi biển. Chúng tôi tản bộ chầm chậm trên bãi. Long lên tiếng trước:
“Trời hôm nay thật đẹp cô nhỉ?”
Nhớ lại lời Long nói lúc trước, tôi cố gắng mỉm cười, trêu anh:
“Còn tùy … tùy theo tâm trạng của mỗi người.”
Nhưng tôi không giấu lòng mình được nữa. Tôi tự tìm lấy bàn tay Long, nắm thật chặt, dừng lại, nhìn thẳng vào mắt anh. Tôi bật khóc. Ánh mắt Long thoáng vẻ bất ngờ, rồi dịu lại, thật hiền, như thấu hết tim tôi. Long ôm tôi, tự nhiên, thân mật như chúng tôi đã quen nhau từ kiếp nào. Tôi tựa càm lên vai anh, thút thít khóc. Anh vỗ nhè nhẹ vào lưng tôi, giọng chân tình:
“Cám ơn em … Anh cám ơn em đã giúp anh thật nhiều … những cảm tình của em … anh biết nói gì đây …”
Tôi cũng không biết mình muốn nói gì với Long, tôi chỉ nghĩ đến cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, rồi bỗng phải xa nhau của hai chúng tôi, như những đợt sóng biển đang vỗ vào bờ, rồi tan biến trong tầm mắt của tôi lúc ấy. Long cởi chiếc áo jean (5) bạc màu như ngàn chiếc áo cũ kỹ người ta bố thí cho người tị nạn, lót trên cát, dìu tôi ngồi xuống cạnh bên anh. Tôi tựa vào vai anh. Long vòng tay ôm tôi. Chúng tôi ngồi im lặng, nhìn biển rộng, trời cao. Thật lâu. Rồi khi tâm tư lắng dịu, tôi nhớ lại và kể cho Long nghe những cảm nghĩ của mình sau khi đã thố lộ cùng dượng Peter đêm hôm qua. Long nói:
“Thiếu tá Peter thật tốt, Lisa à. Khi nãy trên đường đến nhà, anh chưa kịp nói hết lời cám ơn của anh về sự giúp đỡ của chính phủ Mỹ cũng như gia đình ông, thì ông đã ngắt lời, xin lỗi thay cho đa số người Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam. Ông nói theo kinh nghiệm ông đã trải qua, đây là một chính sách sai lầm, nhưng Quốc Hội phải theo ý của đa số dân chúng. Biết làm sao, đó là cái giá của dân chủ mà mình phải trả!”
Tôi vừa mở miệng, định hỏi Long nghĩ sao về những cảm nghĩ của tôi, Long nói tiếp, chậm rãi:
“Anh cũng đã nghĩ như em. Bi quan, yếm thế không giúp anh gì hết. May mà có em giúp đỡ, gợi ý cho anh. Nhất là những cảm tình của em, của gia đình Thiếu tá Peter, chúng đã an ủi anh thật nhiều. Hôm qua là hôm qua, ngày nay là ngày nay. Anh phải nuôi hy vọng. Anh phải sống cho ngày hôm nay, nhưng anh sẽ không bao giờ quên Việt Nam, gia đình, đồng đội, đồng bào của anh. Điều anh quan tâm nhất là liệu mình có học được bài học đau đớn này không, hay là khi vinh thân phì gia mình quên nó đi.  Hơn tuần nay anh muốn nhờ em cắt ngắn dùm mái tóc này. Tóc dài làm anh khó chịu lắm, từ ngày anh đi lính … Nhưng anh ngại, không hỏi em.”
Tôi mừng rỡ, kéo Long đứng lên, chạy vội về hướng nhà dì Mary. Tôi muốn giúp Long vứt bỏ ngay mái tóc dài đáng ghét ấy, cũng như chúng tôi đang bỏ mặc chiếc áo jean bạc màu đang lăn lốc cuốn theo chiều gió trên bãi biển vắng người.
Về đến nhà dì Mary, mời Long một ly trà đá ở phòng khách và trao cho anh một áo thun kỷ niệm Florida tôi mua định làm quà cho bạn ở Fantastic Clips, tôi vội tìm ngay bộ đồ nghề để cắt tóc cho Long ở ngoài sàn gỗ sau nhà, dễ dọn dẹp khi xong việc. Khi tôi trở vào phòng khách, Long đã chờ sẵn trao cho tôi gói giấy báo, nói anh không có quà gì cho tôi ngoài tập “hồi ký” mà mấy ngày qua anh đã chép lại và muốn tặng tôi để làm kỷ niệm. Nếu không gặp tôi hôm nay, anh định sẽ gởi cho tôi qua bưu điện sau khi đến Minneapolis. Tôi rất cảm động, nói không nên lời ngoài hai chữ “cám ơn” thường lệ. Long muốn thố lộ gì với tôi khi tặng tôi tâm tư của chính anh? Hay là Long yêu tôi?
Tôi cắt tóc cho Long, chuyện trò như thường tình, nhưng lòng nghĩ ngợi bâng quơ. Tôi nói cho Long nghe ước mơ viết văn của mình và xin phép được dùng “hồi ký” của anh để viết thành một truyện khi có điều kiện. Long bằng lòng không do dự, bảo tôi: “Dù muốn dù không em cũng đã góp phần viết tập bản thảo này rồi mà!”. Khi nhấp nhát kéo cuối cùng, theo thói quen tôi nhóm người ra xa, nhìn công trình mỹ thuật của mình từ phía sau lưng người khách. Mái tóc hớt ngắn, cao, sát da sau ót của Long làm tôi bỗng nhớ cha tôi vô hạn. Cha tôi cũng có mái tóc hớt ngắn như thế này. Bất giác tôi cúi xuống hôn nhẹ vào ót của Long. Anh quay lại, chưa kịp phản ứng tôi đã ôm hai tai anh, đặt vào môi anh một chiếc hôn nồng nàn. Long đứng dậy, đáp lại tình tôi bằng một vòng ôm thật chặt, môi không rời tôi. Tôi không còn thắc mắc chi nữa, Long yêu tôi. Và, lúc ấy tôi thấy mình cũng yêu Long. Tôi vâng lời theo cảm giác của mình, không chút do dự, khe khẻ nói:
“Mình vào phòng đi anh. Em muốn có một kỷ niệm thật sự với anh …”
Khi Long dìu tôi vào nhà, tôi thoáng nhận ra dấu hiệu ngập ngừng nơi vòng tay của Long. Vì thế tôi không bỡ ngỡ khi anh đưa tôi đến phòng khách thay vì phòng ngủ. Chúng tôi ngồi xuống ghế nệm. Long choàng tay ôm vai tôi. Tôi ngả đầu trên ngực anh.  Long dịu dàng nói:
“Lisa, anh yêu em. Anh ... anh ... muốn em nhiều lắm. Nhưng anh thấy chúng mình không nên vội vàng. Tháng vừa qua và ngày hôm nay chúng mình đã có những giây phút tuyệt đẹp của tình người với người, bạn với bạn, trai với gái, chân thật, không chút lừa dối, lợi dụng. Đó là kỷ niệm thật sự mà anh sẽ không bao giờ quên. Anh không muốn và anh không thể so sánh những kỷ niệm của anh và em trong tháng qua với ba năm John và em chung sống. Anh trộm nghĩ cái “hội chứng Việt Nam” là lý do John xa em, chứ em và John vẫn còn yêu nhau. Bây giờ cái “hội chứng” đó đâu còn là một trở ngại cho em nữa. Hãy cho cuộc tình của em và John thêm một dịp may đi em.”

        5.

Tôi trở về Ohio vài ngày sau khi chia tay với Long, không ở lại Florida cho hết mùa hè như đã dự tính. Tôi đi làm việc ngay cho Fantastic Clips và sửa soạn cho khóa học mùa Thu. Lòng hân hoan, tôi hạnh phúc như một con người mới. Vài tuần lễ sau, tôi tình cờ gặp lại John trong một buổi tiệc ở nhà một người bạn chung. Tôi cứ tưởng hai chúng tôi đã không còn gì với nhau nữa, nhưng tôi lầm, đúng như lời Long nói với tôi hôm cuối cùng ở Destin.
Sau vài buổi hẹn hò, John ngỏ lời cùng tôi, xin được trở về chung sống như xưa, và tôi đã nghe lời khuyên của Long. Năm sau, tôi ra trường và có việc làm, rồi nhận lời cầu hôn của John. Tôi liên lạc thường xuyên với Long. Anh lập gia đình sau tôi ba năm khi đã tốt nghiệp đại học.
Sau khi bức tường Bá Linh bị phá vỡ và Đông Đức không còn cộng sản, tôi gởi cho Long một bưu ảnh với dòng chữ duy nhất: “Anh sai rồi!” Long trả lời bằng một bưu ảnh và hai chữ: “Em đúng!”  Mới đây, khi Quốc Hội Hoa Kỳ bàn thảo ngân sách chiến tranh, ra điều kiện chánh phủ phải rút quân khỏi Iraq, tôi nhận được điện thư của Long. Anh bảo: “Chúng ta không thèm học, hay không học được bài học Việt Nam?”
Tôi không trả lời thư Long mà viết truyện ngắn này để tặng riêng anh. Tôi hãnh diện là bạn của Long. Sau bao năm anh vẫn ghi nhớ bài học lịch sử ấy và anh không quên nguồn gốc của mình. Riêng tôi, hơn 30 năm rồi mà tôi vẫn chưa đạt được ước mơ trở thành một văn sĩ chuyên nghiệp. Tuy nhiên, tôi có một mái ấm gia đình, một cuộc sống hạnh phúc nhờ một người bạn chân tình của mùa Hè năm xưa. Tôi còn muốn gì hơn?

đàoanhdũng
Chớm Thu, 2007


 Ghi chú:
(1)   Tên một loại học bỗng của chánh phủ Hoa Kỳ vào thập niên 1970-1980.
(2)   Khuôn viên trường đại học
(3)   Tạm dịch: Con đâu còn bé nữa. Hãy trưởng thành!
(4)   Đơn vị đo lường chiều dài, khoảng 1/3 mét.
(5)   Vải xanh thô may quần áo cao-bồi



Hân hạnh đón nhận những lời bình luận dễ thương của bạn.

18 tháng 4, 2015

Tôi học "mần" thơ - Thơ Đào Anh Dũng




Tôi học "mần" thơ


Tôi học "mần" thơ
Với nguyên âm Việt
Tôi không mộng mơ
Chỉ biết nói thiệt
Tự đáy tâm hồn
Cụ già sáu lăm...


Âm A, tưởng nhớ công cha,
Non cao, biển rộng bao la vô ngần.
Sống sao có nghĩa, có nhân,
Dạy con từng bước dấn thân vào đời.

Âm E, tình mẹ đầy vơi,
Chăm lo con cái nào lơi đêm ngày.
Sớm hôm tất bật liền tay,
Vô biên tình mẹ, mây bay cuối trời.

Âm Ê, bốn bể trùng khơi,
Tình em trao trọn rạng đời thắm tươi.
Tháng năm không vắng nụ cười,
Ta yêu như thuở đôi mươi nồng nàn.

Âm I, tỉ mỉ luận bàn,
Thế gian đa dạng đa mang khôn cùng.
Biết mình ta sống ung dung,
Biết người ta sống khiêm cung với đời.

Âm U, nhu, nhẫn, "tôi" ơi!
Cỏ lau còn đó, cây sồi ngả nghiêng.
Mặc cho thế sự đảo điên,
Bình thân, tâm vững, ưu phiền không vương.

Âm Ư, ưu ái bốn phương,
Tha nhân làm bạn, giá gương phủ điều.
Thị phi xem tựa rong rêu,
Ngoài tai buông xả trăm điều đôi co.

Âm O, sống chẳng so đo,
Mãi mê hơn thiệt vòng vo bận lòng.
Cuộc đời nhẹ tợ như bông,
Ham chi danh vọng đeo gông nợ nần.

Âm Ô, ôn cố tri tân,
Dày công học hỏi ân cần khắc ghi.
Đối nhân xử thế nghĩ suy,
Nghe nhiều, nói ít, từ bi trong ngoài.

Âm Ơ, ơn huệ cầm tay,
Gia ân, tích lộc mấy ai am tường.
Tổ tiên lưu đức lưu phương,
Cháu con gìn giữ ngũ thường ngàn năm.

Âm Y, chân lý chân tâm,
Tìm đây, kiếm đó, nhận lầm như chơi.
Sống đừng phụ Đất trách Trời,
Đó là luân lý ở đời của tôi...


đàoanhdũng
Kỷ niệm sinh nhật 65